Đồng chí Trần Hữu Dực, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Sao vàng, nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ, bắt đầu hoạt động cách mạng từ năm 1925, Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam từ tháng 6 năm 1929, Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị năm 1930, là một trong những chiến sĩ cách mạng tiền bối của Đảng ta. Nhân kỷ niệm 30 năm ngày mất đồng chí Trần Hữu Dực (21/8/1993 - 21/8/2023), chúng tôi xin giới thiệu bài viết này như thắp một nén tâm hương tưởng nhớ đến một chiến sĩ cách mạng lão thành luôn nêu cao đạo đức “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư”, suốt đời chiến đấu cho lý tưởng cộng sản cao đẹp.
Bác Hồ kính yêu của dân tộc Việt Nam là một vị lãnh tụ mẫu mực, luôn nhất quán giữa lời nói và hành động. Bác không chỉ để lại những lời dạy sâu sắc cho đội ngũ cán bộ, đảng viên về việc học tập, rèn luyện những phẩm chất “Cần, kiệm, liêm,
chính; chí công, vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân, mà còn đào tạo, bồi dưỡng thế hệ lãnh đạo kế cận thành những người cộng sản mẫu mực hội tụ đầy đủ những phẩm chất cao quý đó. Trong số những học trò xuất sắc của Bác có đồng chí Trần Hữu Dực – Người chiến sĩ cách mạng đã chiến thắng kẻ thù bằng tinh thần thép và ý chí tiến công “bước qua đầu thù”.
*
Trong thời gian hoạt động cách mạng từ 1926-1945, Trần Hữu Dực bị Pháp bắt 4 lần và bị chính quyền Nam triều kết án tổng số 29 năm tù giam và 22 năm quản thúc, từng trải qua các nhà tù khét tiếng tàn độc của đế quốc thực dân như nhà tù Quảng Trị, nhà đày Lao Bảo, nhà đày Buôn Ma Thuột (2 lần).
Có lẽ trong Đảng ta ít có đồng chí nào bị bộ máy cầm quyền của đế quốc thực dân bắt bớ, tra tấn dã man và bỏ tù nhiều năm như Trần Hữu Dực. Chính trong địa ngục lao tù, bằng nghị lực của người yêu nước, bằng ý chí của người cộng sản, Trần Hữu Dực đã làm thất bại mọi ngón đòn tra tấn cực kỳ tàn bạo của kẻ thù.
Tháng 6 năm 1945, thoát khỏi nhà tù đế quốc và không một phút nghỉ ngơi, Trần Hữu Dực lao ngay vào công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa giành chính quyền. Trong tình hình vô cùng khẩn trương, cấp trên giao cho Trần Hữu Dực trực tiếp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Quảng Trị. Bằng trí tuệ và khả năng công tác thực tiễn của mình, Trần Hữu Dực đã cùng tập thể Ủy ban Khởi nghĩa do ông làm Chủ tịch, lãnh đạo thành công cuộc khởi nghĩa Quảng Trị nhanh gọn.
Giành chính quyền xong, ông không được ở lâu với đồng bào, đồng chí của tỉnh Quảng Trị quê hương. Ngày 31/8/1945, trong phiên họp đại biểu các tỉnh Trung Bộ, ông được bầu vào Thường vụ Xứ ủy và Chủ tịch Ủy ban Trung bộ với sự tín nhiệm tuyệt đối. Buổi ra mắt đầu tiên của vị Chủ tịch Trung bộ 35 tuổi đã gây một tiếng vang lớn trong mọi tầng lớp nhân dân kinh đô Huế. Từ các viên chức của chế độ cũ đến các vị đại thần, trong đó có những người đã từng ký lệnh bắt giam ông, đều cảm thấy hoàn toàn yên tâm, tin tưởng vào chế độ mới.
Cuộc đời có những đổi thay thật kỳ diệu. Mới hôm nào, ông còn là một người tù bị cùm trong xà lim, nay chỗ ở mới của ông là dinh thự của tên Khâm sứ Trung Kỳ với đầy đủ mọi tiện nghi sang trọng. Nhưng ông không choáng ngợp trước sự đổi thay đó. Hàng nghìn cặp mắt theo dõi đời sống, sinh hoạt của vị Chủ tịch - “Viên Khâm sứ mới” và trong lúc “Một số người thi nhau đem con ra ra thành phố ở những ngôi nhà sang trọng, thậm chí có người cưới vợ ngay trong toà nhà Khâm sứ, yến tiệc linh đình…”, thì Trần Hữu Dực vẫn để vợ con ở quê. Qua lời tự sự của ông: “Có một lần, vợ tôi đưa đứa con trai 7 tuổi vào thăm tôi. Tôi đã bố trí một buổi đưa vợ tôi vào thăm cung điện Nhà Vua, dẫn vợ tôi đi thăm khắp toà Khâm sứ sang trọng và lộng lẫy… Khi tôi đưa vợ con vào phòng nghỉ riêng của toà Khâm sứ Trung Kỳ, bấy giờ là phòng nghỉ riêng của Chủ tịch Trung Bộ, vợ tôi đã thốt lên kinh ngạc: “Nhà mình được ở đây à?”. Tôi đã vui vẻ trả lời ngay: “Không! nhà mình vẫn ở Dương Lệ Đông, Quảng Trị. Ngày mai, hai mẹ con lại về đấy”…[1]cho chúng ta thấy phẩm chất liêm chính đáng quý của Trần Hữu Dực. Mặc dù, ai cũng biết rằng, ông rất thương và biết ơn vợ, người đã hơn 13 năm phải làm vợ của người tù cộng sản, phải dành những năm tháng tuổi trẻ của một thời con gái cho sự nhớ thương người chồng xa cách biền biệt, hết nhà lao Quảng Trị, Lao Bảo, Bình Thuận đến nhà đày Buôn Mê Thuột, không biết sống chết ra sao.
Trong công việc xây dựng và củng cố chính quyền mới ở các tỉnh Trung Bộ, ông thường làm việc căng thẳng suốt ngày đêm, đến bữa cùng xuống ăn cơm với anh chị em phục vụ và các cán bộ khác trong cơ quan, không chấp nhận sự ưu đãi nào đối với bản thân.
*
Trong khoảng 10 năm được sống và làm việc với Trần Hữu Dực, ông Trần Việt Phương kể lại: Trong hai năm 1949 - 1950 trên Chiến khu Việt Bắc, đồng chí Trần Hữu Dực là một ủy viên của Đảng đoàn Chính phủ. Tôi là người thư ký làm biên bản, ghi ý kiến của từng người trong các cuộc họp Đảng đoàn Chính phủ, thấy đồng chí Trần Hữu Dực luôn là người nói ngắn gọn, rõ ràng, nêu những ý kiến dứt khoát, thẳng thắn. Đồng chí Phạm Văn Đồng, Bí thư Đảng đoàn Chính phủ là người kiệm lời, quý thời gian, trong hội nghị tự đòi hỏi mình và yêu cầu người khác vào thẳng vấn đề, đóng góp thiết thực về giải pháp, cho nên đồng chí Phạm Văn Đồng thường tâm đắc với cách nói và tán thành nhiều ý kiến của Trần Hữu Dực. Thời ấy, trên Chiến khu Việt Bắc có phong trào tăng gia sản xuất, trồng trọt các loại rau và cả lúa, ngô, khoai, sắn; chăn nuôi gà, vịt để cải thiện đời sống. Tôi còn ghi trong tâm trí hình ảnh đồng chí Trần Hữu Dực mặc quần đùi, áo cộc tay, phạt cành đốn gốc cây rừng, cuốc đất khai hoang, vun luống trồng rau. Bấy giờ, chúng tôi mới trên dưới 20 tuổi, đồng chí Trần Hữu Dực gấp đôi tuổi chúng tôi, nhưng trong toàn Chiến khu Việt Bắc không có ai lao động sản xuất được như đồng chí Trần Hữu Dực. Từ những năm 1960, đồng chí Trần Hữu Dực làm Bộ trưởng ở Phủ Thủ tướng. Hằng ngày suốt cả tuần lễ, đồng chí làm việc ba buổi sáng, chiều, tối ở Phủ Thủ tướng. Không ít lần, đồng chí hẹn tôi làm việc từ 23 giờ hôm trước đến 1 giờ sáng hôm sau. Trong những thời điểm khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, máy bay địch bắn phá đường giao thông, từ Hà Nội vào Vĩnh Linh đường rất khó đi, lại qua 3 phà lớn, thường cán bộ ngồi ô tô suốt hai ngày. Đồng chí Trần Hữu Dực đi cấp tập với hai lái xe thay phiên nhau, rời Hà Nội tinh mơ sáng, đến Vĩnh Linh đã vào đêm, hẹn trước cán bộ, tới nơi làm việc ngay, làm xong lại tức khắc quay ra, ngồi nghỉ ngơi chút ít trên xe, theo lối cuốn chiếu, đi ra đến tỉnh nào đều dừng lại làm việc ở tỉnh ấy. Một sức làm việc khẩn trương, mãnh liệt, dẻo dai, anh em cán bộ trẻ nhiều khi hết sức cố gắng mới theo kịp. Một lần, Bộ Chính trị họp bàn về một số vấn đề kinh tế quan trọng, đồng chí Trần Hữu Dực được mời dự họp và được Thủ tướng Phạm Văn Đồng ủy nhiệm thay mặt Đảng đoàn Chính phủ báo cáo tình hình. Sau cuộc họp ấy, Bác Hồ dặn đồng chí Phạm Văn Đồng “Báo cáo của chú Dực tốt, giúp Bộ Chính trị thảo luận sớm thống nhất ý kiến, quyết định chủ trương và biện pháp đúng. Lần sau bàn những vấn đề tương tự, có thể tiếp tục giao cho chú Dực chuẩn bị báo cáo tình hình và nêu đề nghị”. Thời chiến tranh, qua bao ngày đêm làm việc, đồng chí Trần Hữu Dực và chúng tôi chỉ có một ấm trà - loại trà trung bình, mỗi người được vài chén trà, ngoài ra không có một thứ bồi dưỡng nào cả. Vậy nhưng đồng chí Trần Hữu Dực vẫn thổi lên được trong chúng tôi một ngọn lửa nhiệt tình và say mê luôn luôn bừng cháy. Trong công việc, đồng chí luôn dặn chúng tôi “không cần quan tâm nhiều về cương vị và chức danh”, chỉ cần “chúng ta một lòng, một dạ, vì dân, vì nước, ra sức làm tròn nhiệm vụ” và “không có danh hiệu nào, phần thưởng nào, niềm vui nào chính đáng và cao quý hơn điều đó”.
Trong việc sử dụng cán bộ và đối xử với cấp dưới, đồng chí Trần Hữu Dực rất chú ý đến phẩm chất cán bộ, nhất là phẩm chất chính trị - là cốt lõi của cán bộ; cũng như vấn đề công bằng, không có chuyện thiên vị người này người nọ trong công việc. Ông Dương Văn Phúc, nguyên Phó Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ trong ký ức của mình nhớ lại: Trong công tác, đồng chí Trần Hữu Dực luôn chỉ đạo sát sao và quan tâm đến cán bộ được giao nhiệm vụ. Giao việc cho ai, đồng chí đều cân nhắc kỹ, không tùy tiện hay theo ý chủ quan của mình. Đồng chí giao việc một cách rõ ràng, xác định ai làm được việc và có ý thức tổ chức mới giao. Trong cuộc sống hàng ngày đồng chí rất tiết kiệm, giản dị, làm gì mà gây lãng phí là đồng chí tuyệt đối không làm. Tôi nhớ thường vào dịp Tết nguyên đán, đến chúc Tết tại nhà, đồng chí hay đãi mứt gừng, rất đơn giản. Đồng chí không hề yêu cầu hay đòi hỏi gì trong cuộc sống riêng cho mình, cứ theo chế độ mà làm. Khi ở cương vị Phó Thủ tướng, đồng chí hằng ngày đi làm được xe ô tô đưa đón, còn vợ thì đi xe đạp (mặc dù bà cũng làm việc ở Phủ Thủ tướng). Nhiều người bảo sao không để vợ cùng đi, đồng chí bảo: “Cùng đi sao được, ô tô và lái xe là tiêu chuẩn của Nhà nước phục vụ Phó Thủ tướng chứ không phải phục vụ gia đình”[2]. Ngay cả khi vợ con ốm đau, đi khám bệnh, đồng chí cũng không dùng ô tô của cơ quan. Đồng chí luôn nhớ lời dạy của Bác Hồ hồi mới giành được chính quyền năm 1945: “Ông ủy viên đi xe hơi, rồi bà ủy viên cho đến các cô, các cậu ủy viên cũng đi xe hơi của ông. Thử hỏi hao phí đó ai phải chịu?”, và đồng chí cho rằng cán bộ phải gương mẫu trong mọi hoàn cảnh, chí công vô tư trong công việc.
*
Gần 40 năm làm việc ở Trung ương, là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa I, II, III và IV, Trần Hữu Dực đã đảm nhiệm nhiều vị trí quan trọng của Đảng, Chính phủ, Quốc hội như Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kế hoạch Nhà nước; Trưởng ban Công tác Nông thôn Trung ương Đảng; Bộ trưởng Bộ Nông trường; Bộ trưởng Phủ Thủ tướng; Bí thư Khu ủy Trị Thiên; Phó Thủ tướng Chính phủ; Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao; đại biểu Quốc hội từ khóa I đến khóa VII. Trên mọi cương vị công tác, ông tận tụy ngày đêm, nắm chắc tình hình, đi sát thực tế, lắng nghe nhân dân, gần gũi cán bộ, bản thân nêu gương, phát huy tập thể, từ đó mà hoàn thành mọi nhiệm vụ. Suốt cuộc đời từ khi trai trẻ đến khi cao tuổi, Trần Hữu Dực luôn luôn là người cán bộ lòng trung, tâm sáng, mắt nhìn tai nghe, óc nghĩ, miệng nói, tay làm. Suốt cuộc đời mình, Trần Hữu Dực sống theo đúng lời dạy của Bác Hồ “Cần, kiệm, liêm, chính”, hướng lòng mình đến “Chí công, vô tư” để phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ông luôn sống trung thực, thẳng thắn, giản dị, khiêm tốn. Ông căm ghét những kẻ cơ hội, tham nhũng, quan liêu, sa đọa về phẩm chất. Ông cho rằng những kẻ đó còn tồn tại trong Đảng là nguy cơ đáng lo ngại hơn cả kẻ thù ở bên ngoài.
Suốt cuộc đời Trần Hữu Dực trung thành với lý tưởng yêu nước và cộng sản, không ngừng phấn đấu cho lý tưởng mà ông đã nguyện đi theo từ tuổi đôi mươi. Ở tuổi 83, đến giây phút cuối cùng, ông vẫn một lòng son sắt với lý tưởng đó.
............................................................
[1]Trần Hữu Dực, Bước qua đầu thù, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996 (tái bản năm 2020), tr. 82
[2]Trần Hữu Dực, Bước qua đầu thù, sđd, tr. 83
(Nguồn: Báo Quảng Trị)