Có thể nói trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình, với khát vọng độc lập, tự do và cũng là dân tộc phải gánh chịu chiến tranh xâm lược liên miên suốt cả chiều dài lịch sử.
Trong tiến trình lịch sử của “bài ca giữ nước”, chúng ta đã có đến 3 bản tuyên ngôn độc lập. Đó là những “lời thề giữ nước”, là những bản “thiên cổ hùng văn” vang dậy núi sông truyền lại cảm hứng bao đời cho cháu con tiếp tục truyền thống tốt đẹp đó.
Chúng ta làm sao quên được trận tuyến trên sông Như Nguyệt (sông Cầu ngày nay) năm 1076, vị tướng quân Lý Thường Kiệt xuất thần bài thơ bất hủ như bản tuyên ngôn thứ nhất, khẳng định rõ ràng: “Nam quốc sơn hà nam đế cư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở) vang lên dõng dạc để động viên binh sĩ. 352 năm sau (năm 1428) khi cuộc kháng chiến chống quân Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi đã viết “Bình Ngô Đại Cáo” như là bản tuyên ngôn thứ hai, tiếp tục khẳng định: “Như nước Đại Việt ta từ trước/Vốn xưng nền văn hiến đã lâu”. Hơn 5 thế kỷ sau, ngày 2/9/1945, giữa Quảng trường Ba Đình nắng thu vàng rực rỡ, giữa biển người với cờ đỏ sao vàng chấp chới tung bay, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập.
Bản Tuyên ngôn độc lập có ý nghĩa quan trọng khẳng định về chủ quyền quốc gia, quyền con người, quyền dân tộc được sống trong độc lập, tự do. Đó là kết tinh các giá trị truyền thống anh hùng, tinh thần và ý chí đấu tranh kiên cường, bất khuất cho một nước Việt Nam độc lập, tự do. Đây là văn kiện lịch sử vô giá, một kiệt tác chính luận, lời tuyên bố hùng hồn với thế giới về những nội dung đầy đủ cơ sở pháp lý vững chắc khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc, mở ra kỷ nguyên mới của thời đại Hồ Chí Minh.
Tuyên ngôn độc lập không chỉ khẳng định quyền con người, quyền độc lập dân tộc mà còn chứa đựng những giá trị to lớn được coi là bản tuyên ngôn nhân quyền của các dân tộc thuộc địa trên toàn thế giới. Điều tuyệt vời là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trích dẫn hai bản tuyên ngôn bất hủ của thế giới, đó là Tuyên ngôn độc lập 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được” và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng nước Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.
Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã phát triển sáng tạo khi khẳng định quyền dân tộc và quyền con người có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại lẫn nhau. Dân tộc độc lập là điều kiện tiên quyết để bảo đảm thực hiện quyền con người và ngược lại thực hiện tốt quyền con người chính là phát huy những giá trị cao cả và ý nghĩa thực sự của dân tộc.
Người đã đưa ra một mệnh đề không thể phủ nhận về quyền độc lập của mọi dân tộc: “Suy rộng ra câu ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Bác ơi! Chúng con hiểu vì sao Bác đã bao đêm thao thức dưới giá rét trời Âu. Bác đã qua nước Mỹ, sống lâu ở nước Pháp và bao nhiêu quốc gia nữa Người mới thấu hiểu quyền bình đẳng con người của độc lập, tự do dân tộc.
Trái tim và trí tuệ của Người không chỉ dành riêng cho nước Việt thân yêu mà còn rộng ra cả nhân loại của một người anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, thể hiện tầm cao trí tuệ, trái tim rộng lớn bao quát thời đại cùng với tầm nhìn và những dự báo thiên tài. Bản tuyên ngôn độc lập chỉ có 1.120 chữ được sắp xếp trong 49 câu là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén bao gồm 3 phần chính: cơ sở pháp lý của bản tuyên ngôn; cơ sở thực tiễn của bản tuyên ngôn và lời tuyên bố độc lập!
Chúng ta ngỡ vẫn còn nghe vọng lại cả biển người như nuốt từng lời của Bác, đầm ấm, rõ ràng, khúc chiết. Bỗng bất ngờ khi đọc, Bác dừng lại giữa những tràng vỗ tay hoan hô rồi ân cần thân mật hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Người vẫn sợ rằng với giọng nói xứ Nghệ âm sắc nằng nặng có thể nhiều người nghe không rõ. Đây là một câu nói không có trong văn bản mà làm rung động, lay thức khi cả quảng trường đồng thanh hô vang như sóng dậy: “Có!”. Từ lúc đó, khoảng cách giữa lãnh tụ và người dân không còn.
Ai cũng thấy rằng vị cha già dân tộc đối với mình như người ông, người cha gần gũi, thân thiết nhất. Khát vọng độc lập, tự do ấy còn được thể hiện sau hơn 20 năm khi cuộc chiến tranh chống Mỹ đến thời kỳ ác liệt nhất. Đó là ngày 17/7/1966, qua làn sóng của Đài Tiếng nói Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc lời kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song Nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày thắng lợi, Nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Vâng, “không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành mệnh lệnh trái tim của toàn dân Việt. Đó là lời thề: “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của Trung đoàn Thủ đô năm 1946 chống thực dân Pháp. Đó là lời hô: “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” của Nguyễn Viết Xuân trên mâm pháo phòng không bắn máy bay Mỹ. Tất cả đã trở thành hành động thiết thực, tự nguyện đồng tâm để làm nên một Điện Biên chấn động địa cầu, một đại thắng mùa xuân 1975 lịch sử.
Theo phong tục của người Việt, chỉ một số ngày đặc biệt trong năm mới được gọi là tết. Bên cạnh các tết cổ truyền như: Nguyên đán, Nguyên tiêu, Thanh minh, Trung nguyên (rằm tháng Bảy), Trung thu thì ngày 2/9 được xem là ngày tết Độc lập của dân tộc Việt Nam, đánh dấu chấm dứt 80 năm nô lệ ngoại bang, mở đầu kỷ nguyên Hồ Chí Minh, kỷ nguyên của độc lập, tự do, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh.
Các bản làng dân tộc với sắc màu thổ cẩm rực rỡ đón ngày tết Độc lập như đi chợ phiên, đi hội. Đặc biệt là ở Mộc Châu (Sơn La), năm nào người Mông cũng tổ chức tết Độc lập thật đặc sắc, mang sắc thái riêng cùng với các dân tộc khác. Khắp mọi miền thành thị, nông thôn đều treo cờ đỏ sao vàng và tổ chức các hội thi mang tính cộng đồng thể hiện sức mạnh khí chất của con người Việt.
78 năm trôi qua nhưng thiêng liêng lời thề độc lập vẫn còn nguyên vẹn giá trị. Đó chính là bản tuyên ngôn thứ ba, là “lời thề giữ nước” như lời căn dặn của Bác Hồ với đại đoàn quân tiên phong ở Đền Hùng trước khi về giải phóng Thủ đô Hà Nội: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước/Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.
Thưa Bác! Tuy Bác đã đi xa nhưng hình ảnh Bác trên đài cao quảng trường Ba Đình ngày 2/9/1945 vẫn sống mãi trong lòng dân tộc. Tư tưởng, đạo đức, phong cách trong sáng của Người là niềm tự hào cho các thế hệ mai sau học tập và noi theo. Hai tiếng Việt Nam - Hồ Chí Minh vang lên trong lòng nhân loại như một sự kết tinh biểu tượng cao đẹp của truyền thống khí phách, tâm hồn dân tộc Việt Nam hôm nay và mãi mãi...
(Nguồn: Báo Quảng Trị)