Người giữ “lửa” nghề truyền thống

Kô Kăn Sương |

Trăn trở trước nguy cơ mai một của nghề đan lát truyền thống do nhịp sống hiện đại, hàng chục năm qua, ông Côn Thủy (SN 1940), người Pa Kô ở thôn A Sau, xã Lìa, vẫn miệt mài duy trì nghề cha ông để lại. Giữa đại ngàn Trường Sơn, người nghệ nhân già này đang từng ngày gửi gắm một thông điệp: Hãy chung tay gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa độc đáo của địa phương.

Tình yêu đan lát từ thuở ấu thơ

Nhiều đời nay, người Pa Kô đã quen dùng tre, nứa, mây để đan các vật dụng sinh hoạt trong gia đình, như: A điên (mâm cơm), a chói (cái gùi), a đư (cái gùi nhỏ giắt ở lưng), ưk Khău (đồ dùng bỏ cơm nếp)… Từ thuở nhỏ, ông Côn Thủy đã lớn lên cùng những vật dụng thân thuộc này. Ký ức tuổi thơ êm đềm, được bố mẹ cho ngồi trong chiếc a chói gùi lên rẫy hay không khí ấm cúng quây quần bên mâm cơm a điên, đã hun đúc tình yêu nghề trong ông. Với mong muốn tự tay làm ra các vật dụng, lên 7-8 tuổi, Côn Thủy đã ngồi bên bố mẹ học cách chẻ, vót lạt tre, nứa, dây mây và tập đan những vật dụng đơn giản nhất. Đến năm 10-12 tuổi, ông đã có thể đan khá thành thạo nhiều mẫu đồ dùng sinh hoạt.

 
Đan lát là niềm vui mỗi ngày của nghệ nhân Côn Thủy - Ảnh: K.S 
 


Khi đủ tuổi lấy vợ, sinh con rồi có cháu nội, cháu ngoại, mặc dù bận rộn với công việc nương rẫy nhưng ông Thủy vẫn không ngừng nghiên cứu và rèn luyện kỹ thuật đan lát của dân tộc mình. Nhờ vậy, tay nghề của ông ngày càng được phát huy. “Để làm nên những vật dụng bền đẹp, trước hết phải vào rừng chọn vật liệu, tre, nứa phải đúng độ “già”, ống thẳng, săn chắc. Thường sau khi đan xong, chúng tôi đặt sản phẩm lên giàn bếp. Theo thời gian, khói bếp sẽ giúp tre có độ bóng, màu đẹp và bền hơn”, Côn Thủy chia sẻ bí quyết.

Trước đây, khi mắt còn tinh anh, sức khỏe còn dẻo dai, bình quân mỗi sản phẩm, với loại to và khó, Côn Thủy đan từ 3-7 ngày, còn loại đơn giản chỉ 1-2 ngày. Bây giờ tuổi cao, sức yếu, ông vẫn duy trì nghề đan lát nhưng phải mất nhiều thời gian hơn để tạo ra một sản phẩm. Vì vậy, ông đưa giống tre về trồng gần nhà để tiện khai thác. Cây mây ngày càng khan hiếm thì ông chuyển sang đan bằng dây nhựa. Công việc này cũng giúp cho ông có thêm thu nhập, dù không cao. Bình quân mỗi sản phẩm có giá từ 150-300 nghìn đồng, mỗi tháng ông làm ra khoảng 7-10 sản phẩm, thu về hơn 1,5 triệu đồng. Sản phẩm của ông chủ yếu bán cho người dân trong xã và những người yêu thích đồ dùng truyền thống.

"Hồi sinh" nghề truyền thống

Vì rất tâm huyết với nghề, ông Côn Thủy không giấu được nỗi lo khi chứng kiến nghề đan lát truyền thống đang có nguy cơ mai một. Bởi theo ông, hiện nay, sự giao thoa văn hóa vùng miền mạnh mẽ, nhu cầu sử dụng các vật dụng truyền thống bằng tre, nứa, mây ngày càng ít dần, thay vào đó là các sản phẩm công nghiệp với mẫu mã đa dạng, bắt mắt và giá thành rẻ hơn. Đầu ra sản phẩm đan lát không ổn định, nguyên vật liệu khan hiếm. Các nghệ nhân đan lát ngày càng lớn tuổi, thế hệ trẻ thì không mấy mặn mà với nghề này… “Tôi sẽ khắc phục mọi khó khăn để duy trì nghề đan lát cho đến hơi thở cuối cùng, cốt làm sao giữ được văn hóa của dân tộc cho thế hệ con cháu sau này. Bằng kinh nghiệm, tình yêu nghề, tôi sẵn sàng truyền dạy đan lát cho những ai yêu thích”, Côn Thủy quyết tâm.

 
Lãnh đạo xã Lìa đến thăm, động viên nghệ nhân đan lát Côn Thủy - Ảnh: K.S 
 


Tình yêu đan lát được Côn Thủy truyền dạy cho các con theo cách riêng. Con gái ông là chị Hồ Thị Thắm, dù chưa đan giỏi như bố, nhưng vẫn mong muốn góp sức để quảng bá sản phẩm, văn hóa của dân tộc mình một cách rộng rãi hơn. “Hiện nay, tôi rất muốn giới thiệu những nét đặc trưng văn hóa của dân tộc, trong đó có các sản phẩm đan lát của bố. Do điều kiện kinh tế khó khăn và chưa thành thạo công nghệ, vì vậy, tôi mong được hỗ trợ tập huấn kỹ năng bán hàng qua mạng để tiếp sức cho bố và người dân trong thôn, tìm kiếm đầu ra cho sản phẩm truyền thống”, chị Thắm bày tỏ.

Hiện nay, những người còn lưu giữ nghề truyền thống như Côn Thủy ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số phía Nam Quảng Trị rất hiếm có. Ông là một tấm gương sáng, như "ngọn lửa" ngày đêm tỏa sáng giữa đại ngàn Trường Sơn, tạo động lực để cộng đồng cùng chung tay bảo tồn những giá trị văn hóa độc đáo của dân tộc.

Để bảo tồn nét văn hóa độc đáo của đồng bào Vân Kiều, Pa Kô, chính quyền xã Lìa đã thường xuyên đẩy mạnh tuyên truyền, vận động và khuyến khích người dân, đặc biệt là nghệ nhân, người trẻ tích cực duy trì, truyền nghề, học nghề truyền thống. Nhờ đó, xuất hiện nhiều tấm gương đi đầu trong việc bảo tồn văn hóa dân tộc, trong đó Côn Thủy là một trong những điển hình, góp phần “hồi sinh” nghề đan lát ở địa phương. Phó Chủ tịch UBND xã Lìa Hồ Văn Hạnh cho hay: “Xã mong muốn các cấp, các ngành, chương trình, dự án có chính sách khuyến khích những nghệ nhân tâm huyết, có nhiều đóng góp với việc gìn giữ, truyền dạy nghề truyền thống; kết nối giới thiệu sản phẩm, giúp người dân có thêm thu nhập và góp phần thu hút khách du lịch tham quan, trải nghiệm các sản phẩm đặc trưng của đồng bào dân tộc thiểu số ở địa phương”.

Nguồn tin: Báo Quảng Trị

Một lòng theo Đảng - Bài 2: Tiếp nối truyền thống

Tâm An |

Kế thừa truyền thống cách mạng của cha ông, thế hệ con cháu đồng bào dân tộc thiểu số (ĐBDTTS) hôm nay đang nỗ lực vươn lên, khẳng định mình trong học tập, lao động và cống hiến. Không chỉ vượt khó để có cuộc sống ấm no, nhiều thanh niên trẻ đã vinh dự được đứng vào hàng ngũ Đảng, tiếp tục viết tiếp những trang sử bằng tinh thần trách nhiệm, ý chí tuổi trẻ và niềm tin son sắt với Đảng, góp phần xây dựng bản làng ngày càng đổi thay.

Cách tân trang phục truyền thống: “Hòa nhập, không hòa tan”

Kô Kăn Sương |

Trang phục được xem là một trong những đặc trưng riêng của người Vân Kiều và Pa Kô ở Quảng Trị. Trong tiến trình phát triển của quê hương, đất nước, đồng bào nơi đây luôn nỗ lực gìn giữ, phát huy những giá trị văn hoá đặc sắc của trang phục dân tộc. Theo thời gian, với sự sáng tạo cùng đôi bàn tay khéo léo của những con người tâm huyết, trang phục của các dân tộc nơi đây còn được cách tân để phù hợp nhu cầu, điều kiện thực tế với nhiều mẫu mã đa dạng, phong phú nhưng vẫn giữ nét đẹp riêng.

Phát huy truyền thống, nắm bắt vận hội, kiến tạo cực tăng trưởng mới

TRẦN PHONG, Phó Bí thư Tỉnh ủy, Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND tỉnh Quảng Trị |

Đại hội đại biểu Đảng bộ UBND tỉnh nhiệm kỳ 2025-2030 là dấu mốc chính trị trọng đại, mở ra thời kỳ mới, thời kỳ của khát vọng vươn lên mạnh mẽ, toàn diện của Quảng Trị anh hùng. Với phương châm “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Đột phá-Phát triển”, đại hội vừa tổng kết chặng đường đã qua, vừa mở ra tầm nhìn chiến lược giai đoạn 2025-2030, khẳng định vai trò nòng cốt của Đảng ủy UBND tỉnh trong lãnh đạo, chỉ đạo, phát huy tinh thần đoàn kết và khát vọng vươn lên, đưa Quảng Trị bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

Những người làm rạng danh truyền thống võ cử Quảng Trị

Nhật Linh |

Trong lịch sử Võ cử của các triều đại phong kiến Việt Nam, Quảng Trị có 3 người đã làm rạng danh truyền thống võ cử quê hương.

Đôi bạn ở ngôi trường truyền thống 50 năm có điểm khối A00 cao nhất Quảng Trị

Đăng Đức |

 Tuấn Kiệt và Như Quỳnh cùng học lớp 12A1, Trường THPT Quảng Trị, đều đạt 29,25 điểm (Toán 9,5; Vật lí 10 và Hóa học 9,75).

Gặp mặt truyền thống Đơn vị 45C1 - An ninh vũ trang Quảng Trị

Sỹ Hoàng |

Sáng nay 20/6, Đơn vị 45C1 - An ninh vũ trang Quảng Trị thời kỳ chống Mỹ cứu nước tổ chức gặp mặt truyền thống nhân kỷ niệm 65 năm ngày thành lập (1960 - 2025).

Nuôi vịt thịt trên sàn an toàn sinh học cho lợi nhuận gấp 1,5 lần so với nuôi truyền thống

Lê An |

Hôm nay 9/6, theo thông tin từ Trung tâm Khuyến nông tỉnh, đơn vị vừa thực hiện thành công mô hình nuôi vịt thịt giống mới trên sàn an toàn sinh học hỗ trợ liên kết tiêu thụ sản phẩm với hiệu quả kinh tế mang lại cao gấp 1,5 lần so với phương thức nuôi truyền thống.

Giữ nghề truyền thống của cha ông

Ngọc Trang |

 Trong đời sống văn hóa phong phú của đồng bào dân tộc Pa Kô trên địa bàn huyện Hướng Hóa, nghề làm men lá truyền thống được xem là một nét văn hóa độc đáo, giàu bản sắc. Từ những tinh túy của núi rừng là những lá, rễ, vỏ cây... quý, qua kinh nghiệm và những đôi tay khéo léo, người dân ở đây đã chế biến thành những viên men thơm nồng độc đáo, mang hương vị đặc trưng của dân tộc mình. Giữa vòng xoáy của cuộc sống hiện đại, nghề này đang bị mai một dần nhưng một số hộ dân tại xã A Dơi vẫn kiên trì giữ gìn và phát huy nghề truyền thống mà cha ông để lại.