Cứ 10 người thì đang có tới 6 người chủ động tìm kiếm công việc mới, đây là bất ngờ sau đại dịch Covid-19, dù người lao động mất việc khá nhiều.
Theo chia sẻ của bà Thanh Nguyễn, nhà sáng lập Anphabe, đang có 3 bước chuyển lớn của nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay, người đi làm hiện không còn mặn mà trở lại công sở sau đại dịch. Đáng chú ý là đang có hiện tượng nghỉ việc ồ ạt dù tỷ lệ thất nghiệp vẫn cao.
“Điều khiến các nhà quản lý vô cùng thắc mắc, là hậu Covid-19, những tưởng nhân viên sẽ quý công việc và vui mừng khi được đi làm lại, thế nhưng, thay vào đó, họ lại quyết định nghỉ việc hàng loạt”, bà Thanh Nguyễn nói.
Theo bà Thanh, có một nghịch lý đang diễn ra với nguồn nhân lực, là dù tỷ lệ thất nghiệp đang cao (chiếm 2,52% nguồn nhân lực), thì tỷ lệ nhân viên nghỉ việc cũng vô cùng cao, cứ 10 người, có tới 6 người đang chủ động tìm kiếm công việc mới. Nghịch lý này càn quét từ châu Mỹ, châu Âu, châu Á và bây giờ là Việt Nam, với tên gọi chung là The Great Resignation – trào lưu nghỉ việc ồ ạt”.
Theo đó, chỉ số gắn kết tình cảm và gắn kết lý trí, hai yếu tố quan trọng tác động tới nỗ lực tự nguyện và cam kết gắn bó của người đi làm, được Anphabe đo lường trên diện rộng, đang ở mức thấp nhất trong 6 năm qua. Tỷ lệ nhân viên mong muốn gắn bó lâu dài với doanh nghiệp cũng đang thấp nhất, chỉ chiếm 46% nguồn nhân lực.
Khảo sát của Anphabe chỉ ra nhiều nhóm nguyên nhân lý giải cho hiện tượng nghỉ việc ồ ạt hiện nay, mà nguyên nhân trực tiếp là do Covid-19, bởi biến động ngành nghề vì đại dịch, sự mệt mỏi, kiệt sức trong môi trường làm việc căng thẳng và mất cân bằng, cả mất kết nối với đồng nghiệp và mất gắn kết với công ty do quá trình làm việc trực tuyến, giãn cách xã hội, ... Do đó, dù tỷ lệ thất nghiệp đang cao, cơ hội tìm việc mới không dễ, nhưng những cản trở này vẫn khó níu chân người lao động muốn nghỉ việc.
Ngoài ra, một nguyên nhân khác tác động mạnh mẽ đến làn sóng nghỉ việc ồ ạt hiện nay, là sau khi thị trường dần mở cửa, tình trạng nhân viên “siêu nhảy việc” gia tăng độ biến sau thời gian dài “án binh bất động” cũng vì ảnh hưởng của Covid-19.
Anphabe ghi nhận, nguồn nhân lực Việt Nam hiện có 17% thuộc nhóm siêu nhảy việc, 19% là thuộc nhóm siêu trung thành (nhóm nhân viên có thời gian gắn bó trung bình với công ty lâu gấp 2 lần những người cùng nhóm tuổi khác). Còn lại 64% được coi là nhóm tiêu chuẩn.
Trong suy nghĩ của siêu nhảy việc, thời gian lý tưởng để gắn kết với một doanh nghiệp chỉ là khoảng 2 năm, trong khi thời gian gắn kết với doanh nghiệp trung bình của nhóm siêu trung thành là 12 năm, còn nhóm tiêu chuẩn là 4,5 năm.
Đáng chú ý, khảo sát cũng cho thấy điều bất ngờ là nhóm “siêu nhảy việc” chiếm phần lớn ở gen Z và gen X, trong khi gen Y lại ổn định nhất.
Điểm nóng nhảy việc tập trung nhiều nhất ở các ngành Công nghệ thông tin, Phần mềm & Ứng dụng, Thương mại điện tử, ngành Quảng cáo - Truyền thông, Giải trí và Dịch vụ tài chính. Trong đó, nhóm siêu nhảy việc đang tích cực tìm kiếm cơ hội mới nhất ở các ngành Dược, Thiết bị y tế, Chăm sóc sức khỏe; ngành Nông nghiệp, Lâm nghiệp,Thủy sản và ngành Kỹ thuật, Máy móc, Cơ khí Công nghiệp.
Dự báo, với ảnh hưởng kéo dài của Covid-19, cả nhóm nhân viên tiêu chuẩn cũng dễ rơi vào trạng thái mệt mỏi, dễ dao động và nghỉ việc. Bà Thanh Nguyễn cho rằng, doanh nghiệp cần có những hoạt động chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần, để hỗ trợ nhân viên vượt qua những “chông chênh” trong giai đoạn này, hạn chế chảy máu chất xám.
Cùng với tình trạng nghỉ việc, nhiều người lao động đang chấp nhận giảm lương để chọn hình thức làm việc kết hợp - Hybrid Work (linh hoạt giữa làm ở nhà và làm ở công sở).
Kết quả khảo sát trực tuyến do Anphabe thực hiện từ tháng 5 – 8/2021, với hơn 65.213 người đi làm có kinh nghiệm, thuộc 20 ngành nghề, ghi nhận chỉ 40% người đi làm tri thức mong muốn quay lại công sở hoàn toàn. Có đến 56% gười ưu tiên chọn hình thức làm việc kết hợp.
Đáng chú ý, có 4% chọn sẽ nghỉ việc luôn, để chuyển sang công việc tự do, được linh hoạt chọn nơi làm việc.
Hình thức làm việc kết hợp được nhận xét là tạo ra sự linh hoạt về thời gian và địa điểm làm việc, tiết kiệm chi phí đi lại, ăn uống và tạo cảm giác thoải mái cho người đi làm. Đồng thời hạn chế được những bất cập khi làm việc từ xa hoàn toàn, như thiếu giao tiếp với đồng nghiệp, bị phân tâm, buồn chán vì ở nhà quá lâu…
Trong nhóm lao động muốn làm việc kết hợp, cứ 10 người thì có 8 người sẵn sàng giảm lương để có được hình thức làm việc này, với mức chấp nhận giảm trung bình là 6,6% thu nhập.
Khảo sát cũng cho thấy khác biệt rõ rệt về nhu cầu tại nhóm các doanh nghiệp muốn nhân viên vẫn đi làm trong giai đoạn giãn cách. Phần nhiều là do tính chất công việc, nhưng cũng không hiếm trường hợp lãnh đạo cấp cao chỉ quen với chuyện nhân viên phải có mặt ở văn phòng.
Chính vì vậy mà tại nhóm doanh nghiệp này, tỷ lệ nhân viên muốn nghỉ việc để trở thành lao động tự cao gấp 2 lần nhóm nhân viên được làm việc tại nhà và gấp 3 lần nhóm được làm việc kết hợp trong giai đoạn giãn cách.
(Nguồn: Phụ nữ mới)