Chiến dịch “Cứu bóng trước khung thành” với mộng tưởng “đưa Việt Nam trở lại thời kỳ đồ đá” - con bài cuối cùng của đế quốc Mỹ bị đập tan. Ngày 23/1/1973, đại diện Đoàn Ngoại giao Mỹ buộc phải ký tắt vào văn bản và ngày 27/1/1973, Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam chính thức được ký kết.
Ngày 29/3/1973, Tổng Tư lệnh quân đội Mỹ - tướng Uây Oen cùng với 2.501 binh sĩ Mỹ lặng lẽ làm lễ cuốn cờ, cúi gằm mặt rời khỏi sân bay Tân Sơn Nhất, chấm dứt sự có mặt của đội quân xâm lược Mỹ trên đất nước ta.
Mặc dù buộc phải ký hiệp định nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn vẫn ngoan cố, với dã tâm: “Trên hòa bình, dưới chiến tranh, ngoài hòa hợp, trong bình định”. Lợi dụng thời cơ lấn chiếm vùng giải phóng, thực hiện âm mưu “tràn ngập lãnh thổ”.
Ngay trong đêm 27/1, địch đưa Lữ đoàn 147 thủy quân lục chiến (TQLC) cùng hai tiểu đoàn thuộc Lữ đoàn 258, với 200 xe tăng, xe bọc thép và pháo binh, không quân yểm trợ, mở cuộc hành quân “Sóng thần” tiến công ta, hòng chiếm lại Cửa Việt, cắm cờ chính quyền Sài Gòn trước giờ Hiệp định Pa-ri có hiệu lực (8 giờ ngày 28/1).
Do đồng chí chỉ huy quân sự ở đây chần chừ, sợ vi phạm hiệp định nên chỉ “cử người sang phản đối”. Vì vậy, ngay trong đêm 27, chúng đã chiếm được một vùng rộng lớn của cảng Cửa Việt mà cả mấy tháng trước không sao làm được, uy hiếp Đông Hà, Dốc Miếu, Quán Ngang, đe dọa nghiêm trọng thành quả cách mạng Quảng Trị… Đồng chí Tư lệnh mặt trận Bắc Quảng Trị Lê Trọng Tấn, sau khi báo cáo với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đã kịp thời ra lệnh: “Lập tức lấy lại cảng”…
Được lệnh đánh trả, Sư đoàn 320 với sự phối hợp với bộ đội địa phương Quảng Trị đã khẩn trương tổ chức phản công tiêu diệt địch. Từ mờ sáng, viện lý do thay quân như địch đã làm trước đó, ta đưa đội hình áp sát các cụm xe tăng địch, rồi đồng loạt nổ súng.
Tên lữ trưởng bị tiêu diệt ngay từ phút đầu. Cuộc chiến đấu vô cùng quyết liệt, giành giật từng tấc đất quê hương. Bị thiệt hại nặng nề, địch bỏ lại hơn 100 xe tăng, xe bọc thép, hớt hải tháo chạy về Long Quang.
Sau thất bại ở Cửa Việt, địch điên cuồng sử dụng pháo binh cả trên đất liền và Hạm đội 7 bắn phá vùng giải phóng, giết hại đồng bào vô tội. Mặt khác, chúng tập trung lực lượng phá “thế da báo” vùng đồng bằng Triệu - Hải và khu vực Tây Bắc Hải Lăng. Từ 1-15/3, địch huy động 2 lữ đoàn, được xe tăng và máy bay yểm trợ, hành quân lấn chiếm vùng giáp ranh của ta ở Tích Tường, Như Lệ, cao điểm 52, 15…
Từ 6 - 18/3, chúng lại đưa hơn 2.500 TQLC cùng 7 đại đội và 3 trung đội bảo an, dân vệ, liên tục mở các cuộc hành quân nhằm đánh bật quân ta ra khỏi các “lõm”. Lực lượng vũ trang cánh Nam Quảng Trị đã kiên cường chiến đấu, tiêu diệt 760 tên địch, phá hủy 22 xe tăng, xe quân sự… nhưng lại rơi vào tình thế khó khăn, đơn độc, thiếu sự phối hợp của bộ đội chủ lực, buộc phải tổ chức rút quân trong hoàn cảnh bị quân địch bao vây.
Để bảo toàn lực lượng, quân ta đã mưu trí phân tán một bộ phận nhỏ bí mật ở lại gây dựng cơ sở, phần lớn lực lượng rút lui đều giương cao cờ giải phóng.
Đồng thời cử cán bộ chủ động gặp và đấu tranh chính trị, buộc địch phải chấp hành nghiêm hiệp định, để cho “lực lượng quân giải phóng sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở về nơi đóng quân”.
Đuối lý, địch không những không ngăn chặn, tiêu diệt quân ta mà còn phải cử một tiểu đội dẫn đường đưa toàn bộ lực lượng của ta đến vùng giải phóng an toàn.
Sau hai tháng giành giật quyết liệt, ta bị mất một số “lõm” giải phóng ở Triệu - Hải, nhưng vẫn giữ được thế trận cơ bản như trước ngày 28/1.
Tại các khu vực địch chiếm đóng, chúng đưa lữ đoàn TQLC và sư đoàn dù, cùng lực lượng bảo an, dân vệ đến đóng chốt, hình thành tuyến phòng ngự kiên cố theo địa hình vòng cung ôm lấy vùng kiểm soát của chúng, gồm huyện Hải Lăng, thị xã Quảng Trị và 5 xã phía Nam huyện Triệu Phong.
Tại đây, địch thực hiện phân tuyến, phân vùng, dàn mỏng, chốt dày, trước mạnh, sau cơ động nhanh. Chúng ra sức quân sự hóa và cảnh sát hóa bộ máy chính quyền, đưa nhiều sĩ quan ác ôn về tận thôn, xã hòng thanh lọc quần chúng, âm mưu xóa sạch cơ sở của ta.
Mặc dù vậy, quân và dân ta vừa tích cực đấu tranh chính trị ở tất cả vùng bị địch kiểm soát, vừa kiên quyết trừng trị đích đáng hành động khiêu khích, tiêu diệt những tên ác ôn ngay tại sào huyệt của chúng.
Lực lượng cách mạng Hải Lăng đã đưa một số cán bộ, chiến sĩ xuống đồng bằng, móc nối, xây dựng cơ sở ở các xã Hải Lộc, Hải Tân, Hải Hòa (nay là xã Hải Phong)… tiếp xúc, tuyên truyền, vận động một số binh lính địch ở 22 chốt từ Khe Trái vào cao điểm 367 Mỹ Chánh.
Cán bộ, chiến sĩ và Nhân dân vùng tiếp giáp đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền phong phú, linh hoạt như loa phát thanh, tiếp xúc trực tiếp, gặp gỡ đối thoại…
Hàng trăm buổi chiếu phim, biểu diễn văn nghệ của quân giải phóng phục vụ binh sĩ của cả ta và địch. Đông đảo binh lính Việt Nam Cộng hòa đã nhận rõ chính - tà, chán ghét chiến tranh phi nghĩa, mong muốn hòa bình.
Những người lính từng ở hai đầu chiến tuyến cùng nhau thưởng thức những tiết mục văn nghệ, nhâm nhi miếng lương khô, viên kẹo ngọt… và cùng hướng về một ước mơ hòa bình, hòa hợp dân tộc, thống nhất Tổ quốc.
Với khí thế hào hùng của người chiến thắng, các địa phương khẩn trương tháo gỡ bom mìn, khai hoang, phục hóa, giải phóng hàng trăm héc ta đất đai vùng trọng điểm lúa. Huy động hàng vạn nhân công đắp đập ngăn mặn Việt Yên, xây dựng các trạm bơm Lâm Bang, Bích Khê cùng nhiều công trình thuỷ lợi nhỏ ở một số xã, tạo thuận lợi cho Nhân dân tổ chức sản xuất, xây dựng cuộc sống.
Nhờ có chủ trương đúng và quyết tâm cao độ, quân và dân Quảng Trị đã hoàn thành tốt mục tiêu “Xây dựng lực lượng cách mạng, xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về quân sự, chính trị, kinh tế…”, tạo nên thế và lực mới, để khi thời cơ đến đã xông lên, phối hợp cùng các đơn vị chủ lực, nhanh chóng giải phóng hoàn toàn quê hương trong mùa xuân 1975 lịch sử.
Nửa thế kỷ đã qua, nhưng những bài học về cuộc chiến tranh chính nghĩa và tư tưởng cách mạng không ngừng, về mục tiêu hòa bình, thống nhất Tổ quốc và hòa giải, hòa hợp dân tộc vẫn còn nguyên giá trị.
(Nguồn: Báo Quảng Trị)