Những ngày tháng Bảy lịch sử. Tháng có nhiều sắc hoa, sắc hương nở nộ tươi thắm trong cái nắng chói chang mùa hè, trong cái oi bức rì rầm tiếng sấm cuối chân trời những cơn dông mùa hạ. Trong lòng tôi chợt ngân lên một sắc hoa màu đỏ, đỏ như sắc màu lá cờ Tổ quốc, như sông Hồng nặng đỏ phù sa; là “Màu hoa đỏ” trong bài hát của nhạc sĩ Thuận Yến phổ thơ Nguyễn Đức.
Mỗi một lời ca trong bài hát đó thật bi tráng, thật thẳm sâu, thật liêng thiêng: “Có người lính/ Mùa thu đã ra đi từ mái tranh nghèo/Có người lính/Mùa xuân đã ra đi từ đó không về/Dòng tên anh khắc vào đá núi/Mây ngàn hóa bóng cây che/ Chiều biên cương trắng trời sương núi/Mẹ già mỏi mắt nhìn theo”.
Và giai điệu khúc ca ấy hùng hồn như một tráng ca bất tử khắc vào non song đất nước: “Việt Nam ơi!Việt Nam/Ngọn núi nơi anh ngã xuống/Rực cháy lên màu hoa đỏ phía rừng xa/Rực cháy lên màu hoa đỏ cuối hoàng hôn”.
Vầng hào quang sáng ấy chính là khúc tráng ca bất tử tháng Bảy của những người lính đã ngã xuống để bảo vệ đất nước thân yêu. Máu các anh đã thấm vào đất đai Tổ quốc. Những người lính tuổi đời còn rất trẻ.
Họ mang theo trong ký ức của mình màu phượng vĩ đỏ hồng sân trường ngày tạm biệt thầy cô, bè bạn lên đường nhập ngũ; màu hoa gạo đỏ ối tháng Ba ngày giáp hạt trên con đê làng uốn cong ôm trọn làng mạc thôn xóm và mang theo màu hoa hồng tượng trưng cho tình yêu nồng cháy đầu đời.
Và trong những đêm chiến trận dưới những làn đạn rạch đỏ trời vẫn mơ về ngày chiến thắng, đất nước hòa bình thống nhất trọn vẹn trong những màn pháo hoa lộng lẫy…
Chiến tranh đã đi qua. Trên đất nước từ Nam chí Bắc đâu đâu cũng gặp những nghĩa trang liệt sĩ. Mỗi nấm mồ các anh là những phím đàn trắng, là một cuộc đời, một gương mặt, một số phận, một tính cách nhưng có chung một dáng đứng xung phong, một tư thế khi ngã xuống vẫn ngã về phía trước.
Có thể trong những phím đàn ngôi mộ ấy đã có tên hoặc chưa có tên nhưng các anh không bao giờ vô danh. Và cây bồ đề ở Nghĩa trang Liệt sĩ quốc gia Trường Sơn tỏa bóng mát cổ thụ, lá bồ đề hình trái tim mang theo sự hướng thiện tri âm lòng từ bi Đức Phật.
Tiếng chuông ở nghĩa trang mang theo tiếng vọng của muôn trái tim kết nối giao thoa những âm vực tâm tình, những vòng sóng âm thanh lay thức. Tiếng chuông hay hồi âm của những linh hồn bất tử. Và từ tiếng chuông ở nghĩa trang này lại ngân vọng bao tiếng chuông chùa, có cả tiếng chuông chùa ngoài đảo Trường Sơn, ngôi chùa như một cột mốc tâm linh thiêng liêng Tổ quốc.
Có tiếng chuông chùa ở đất lúa Thái Bình - nơi có bao nữ tu, nhà sư là những nữ thanh niên xung phong từ chiến trường về xuống tóc: “Sao sư nữ không gõ mõ/Lại vừa tụng kinh, lại gõ đầu mình” (thơ Phạm Tiến Duật) khi mảnh đạn còn nằm nhức nhối trong đầu. Ngày ấy, mái tóc rụng dần theo những cơn sốt rét...
Khúc tráng ca tháng Bảy là khúc tráng ca bất tử. Bất tử trong những chiến công, bất tử trong những địa danh lịch sử, bất tử cả trong ký ức của người thân. Chỉ một dải đất Bắc miền Trung mà có bao cái tên, khi gọi lên ta đã hình dung những tháng ngày ác liệt.
Cái khúc giữa trên đôi vai mẹ, của đòn gánh hai đầu đất nước của mẹ, cái eo thắt như thắt lưng của mẹ - người mẹ Việt Nam mà tôi đã viết: “Hầu bao của mẹ thắt nhiều lo toan”.
Trong những năm tháng chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, trên trận tuyến giao thông đã lập nên bao chiến công kỳ tích. Đó là địa danh thung lũng Truông Bồn (Nghệ An) bất tử với sự hy sinh của “tiểu đội thép” trước giờ tổng thống Mỹ tuyên bố chấm dứt ném bom đánh phá miền Bắc không điều kiện.
Đó là Ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh) bất tử với sự hy sinh của 10 cô gái thanh niên xung phong trong buổi chiều định mệnh. Và “Hang 8 cô” trên đất lửa Quảng Bình - nằm trên tuyến đường 20 Quyết Thắng. Các cô hy sinh trong cái hang đá như một hộp đàn âm vọng day dứt khôn nguôi, vẫn lưu lại những âm thanh cuối cùng của họ khát khao tình yêu cuộc sống khi bị đá tảng lấp xuống cửa hang...
Trở lại Thành Cổ Quảng Trị những ngày tháng Bảy này, tôi bước nhẹ trên thảm cỏ xanh. Ôi! cỏ xanh non mát, cỏ xanh dịu êm, cỏ xanh bất tử và ngân vọng trong tôi bài hát “Cỏ non Thành Cổ” của nhạc sĩ Tân Huyền làm thức dậy với bao cung bậc bồi hồi, trầm mặc: “Thắp một nén hương viếng người nằm dưới cỏ/Cỏ xanh non tơ, cỏ xanh non tơ/Xin chớ vô tình với người hy sinh/Trên mảnh đất quê mình”.
Vâng, đất nước quê hương không bao giờ vô tình trước sự hy sinh của các anh, các chị, không vô tình trước những người thương binh đã để lại một phần máu thịt vào đất đai Tổ quốc. Những ngôi nhà tình nghĩa, những trạm điều dưỡng thương binh như một mái ấm nghĩa tình.
Và có biết bao người cựu chiến binh vẫn lặng lẽ đi tìm đồng đội để đưa các anh về nằm bên nhau. Nhà thơ quân đội Nguyễn Đức Mậu đã có hai câu thơ đọc lên làm ta thổn thức, rưng rưng nước mắt trong “Trường ca sư đoàn”: “Nếu tất cả về đây đông đủ/Sư đoàn tôi sẽ thành mấy sư đoàn”.
Sự hy sinh quả thật lớn lao và sự tiếp nối truyền thống cũng rất đáng tự hào để viết tiếp trang sử vàng: “Lớp cha trước, lớp con sau/Đã thành đồng chí chung câu quân hành” (Tố Hữu).
(Nguồn: Báo Quảng Trị)