Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh và đối ngoại.
Thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX và Kết luận số 25- KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI về phát triển KT - XH và bảo đảm QP - AN vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ, những năm qua, các cấp, ngành, địa phương trong vùng đã nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò, vị trí. Theo đó nhiều điểm nghẽn đối với phát triển được khơi thông, tiềm năng, lợi thế của vùng và các địa phương trong vùng từng bước được phát huy. Để tiếp tục phát triển vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ phù hợp với các chiến lược phát triển quốc gia, phải tập trung thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp, trong đó có vấn đề tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh phát triển liên kết vùng.
Có thể dẫn một vài con số để thấy được sự phát triển của toàn vùng. Trong giai đoạn 2005-2020, vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung có tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,3%/năm, cao hơn mức trung bình cả nước. Quy mô kinh tế của vùng chiếm 14,5% cả nước; GRDP bình quân đầu người đạt mức 56,9 triệu đồng/người/năm.

Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng dịch vụ và công nghiệp; một số ngành kinh tế cơ bản, nhất là kinh tế biển, các ngành có giá trị gia tăng cao được hình thành và phát triển; du lịch dần trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Kết cấu hạ tầng KT - XH, nhất là hạ tầng giao thông và đô thị được cải thiện. Hợp tác giữa các địa phương trong vùng, của vùng với các địa phương khác và với các tỉnh của nước bạn Lào có chung đường biên giới với Việt Nam đạt được một số kết quả ban đầu…
Tuy nhiên, đây là vùng có chỉ số phát triển ở nhiều lĩnh vực thấp hơn mức trung bình của cả nước; tăng trưởng kinh tế chưa bền vững, chất lượng và năng lực cạnh tranh chưa cao. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, chưa có đột phá; thiếu dự án đầu tư quy mô lớn, có tính động lực; doanh nghiệp chủ yếu có quy mô vừa và nhỏ, tỉ suất lợi nhuận thấp. Đặc biệt sự liên kết vùng còn lỏng lẻo, lúng túng, bị động.
Hạn chế trên do nhiều nguyên nhân, trong đó tư duy về liên kết vùng chậm được đổi mới; hoạt động của hội đồng điều phối vùng chưa hiệu quả; cơ chế điều phối, kết nối vùng còn nhiều bất cập; phân chia các vùng chưa thống nhất; thiếu hệ thống các chỉ tiêu KT - XH để quản lý, điều tiết vùng. Chưa có chính sách đủ mạnh để tạo đột phá cần thiết cho vùng và một số địa phương trọng điểm. Chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu liên kết, đồng bộ.
Nguồn lực đầu tư cho vùng chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là đầu tư cho hạ tầng giao thông; cơ cấu đầu tư chưa hợp lý, còn dàn trải, hiệu quả sử dụng chưa cao. Phối hợp giữa các bộ, ngành trung ương với các địa phương chưa chặt chẽ. Vùng còn bị tác động mạnh bởi thiên tai, nhất là biến đổi khí hậu…
Nhìn nhận được những mặt mạnh, kết quả đạt được cũng như hạn chế qua thực hiện Nghị quyết số 39-NQ/TW và Kết luận số 25-KL/TW của Bộ Chính trị khóa XI, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 26- NQ/TW về phát triển KT - XH và bảo đảm QP - AN vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải Trung Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045. Nghị quyết đưa ra 9 nhóm nhiệm vụ, giải pháp để thúc đẩy kinh tế vùng phát triển, trong đó có nhiệm vụ quan trọng, đó là tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, đẩy mạnh phát triển liên kết vùng.
Trước hết, một lần nữa phải quán triệt sâu sắc về sự thống nhất cao ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng; đây là xu thế tất yếu, là động lực kết nối và dẫn dắt sự phát triển các địa phương trong vùng. Xây dựng, tổ chức thực hiện quy hoạch vùng và quy hoạch từng địa phương giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, tạo cơ sở pháp lý cho sự liên kết, hợp tác.
Các quy hoạch đó phải đảm bảo gắn kết giữa phát triển các khu kinh tế ven biển, khu công nghiệp với các khu du lịch và dịch vụ; giữa đô thị với phát triển nông thôn mới; giữa phát triển kinh tế với bảo vệ tài nguyên, môi trường sinh thái, thích ứng với biến đổi khí hậu. Bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, lịch sử và hệ sinh thái biển, đảo, rừng; phát huy hiệu quả các hành lang kinh tế, nhất là Hành lang kinh tế Đông - Tây; nâng cao hiệu quả hoạt động của các cảng biển, cảng hàng không, khu kinh tế cửa khẩu.
Cùng với đó, tập trung nghiên cứu tổ chức không gian phát triển vùng theo các tiểu vùng, trong đó tiểu vùng Trung Trung Bộ có vai trò động lực, có tác động lan tỏa và thúc đẩy sự phát triển của toàn vùng; kết nối hữu cơ với các tiểu vùng khác trong vùng, với các vùng khác trong cả nước; liên kết các ngành, doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu khoa học và các trường đại học.
Xây dựng thể chế liên kết vùng để điều phối và kết nối phát triển vùng nhằm nâng cao hiệu quả các hoạt động liên kết nội vùng, liên vùng phù hợp với định hướng và đặc thù phát triển vùng; bảo đảm các quy định pháp lý.
Mặt khác, cần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; xây dựng cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích phát triển doanh nghiệp và thu hút nguồn nhân lực nhằm khai thác hiệu quả tiềm năng, thế mạnh, nhất là các ngành kinh tế biển. Tập trung đầu tư hệ thống hạ tầng trọng yếu bảo đảm liên kết vùng; sớm xây dựng và phát triển hệ thống thông tin, dữ liệu, trao đổi thông tin KT - XH giữa các địa phương trong vùng.
(Nguồn: Báo Quảng Trị)