Phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050

PV |

Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà vừa ký ban hành Quyết định số 893/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.


Mục tiêu tổng quát của Quy hoạch là bảo đảm vững chắc an ninh năng lượng quốc gia, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, bảo đảm quốc phòng, an ninh, nâng cao đời sống của nhân dân, bảo vệ môi trường sinh thái. Thực hiện thành công chuyển đổi năng lượng góp phần quan trọng đáp ứng mục tiêu phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050. Ngành năng lượng phát triển hài hòa giữa các phân ngành với hạ tầng đồng bộ và thông minh, đạt trình độ tiên tiến của khu vực, phù hợp với xu thế phát triển khoa học công nghệ của thế giới.

Đồng thời, phát triển ngành công nghiệp năng lượng độc lập tự chủ; hình thành hệ sinh thái công nghiệp năng lượng tổng thể dựa trên năng lượng tái tạo, năng lượng mới, hướng tới trở thành một trung tâm công nghiệp năng lượng sạch và xuất khẩu năng lượng tái tạo của khu vực.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Về bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia, Quy hoạch đặt mục tiêu cung cấp đủ nhu cầu năng lượng trong nước, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội với mức tăng trưởng GDP bình quân khoảng 7%/năm trong giai đoạn 2021-2030, khoảng 6,5 - 7,5%/năm trong giai đoạn 2031-2050. Tổng nhu cầu năng lượng cuối cùng 107 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và đạt 165-184 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050. Tổng cung cấp năng lượng sơ cấp 155 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2030 và từ 294-311 triệu tấn dầu quy đổi vào năm 2050. Nâng tổng mức dự trữ xăng dầu cả nước (bao gồm cả dầu thô và sản phẩm) lên 75-80 ngày nhập ròng vào năm 2030. Định hướng sau năm 2030, xem xét tăng dần mức dự trữ lên 90 ngày nhập ròng.

Về chuyển đổi năng lượng công bằng, Quy hoạch đặt mục tiêu tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng năng lượng sơ cấp là 15-20% vào năm 2030 và khoảng 80-85% vào năm 2050. Tiết kiệm năng lượng khoảng 8-10% vào năm 2030 và khoảng 15-20% vào năm 2050 so với kịch bản phát triển bình thường.

Mức thải khí nhà kính khoảng 399-449 triệu tấn năm 2030 và khoảng 101 triệu tấn vào năm 2050. Mục tiêu cắt giảm khí nhà kính từ 17-26% vào năm 2030, khoảng 90% vào năm 2050 so với kịch bản phát triển bình thường. Hướng tới đạt mức phát thải đỉnh vào năm 2030 với điều kiện các cam kết theo Quan hệ Đối tác về chuyển đổi năng lượng công bằng (JETP) được các đối tác quốc tế thực hiện đầy đủ, thực chất.

Về phát triển ngành công nghiệp năng lượng, Quy hoạch đặt mục tiêu phấn đấu khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên năng lượng trong nước: Sản lượng khai thác dầu thô giai đoạn 2021 - 2030 đạt 6 - 9,5 triệu tấn/năm. Định hướng giai đoạn 2031 - 2050 đạt 7 - 9 triệu tấn/năm. Sản lượng khai thác khí tự nhiên giai đoạn 2021 - 2030 đạt 5,5 - 15 tỷ m3/năm. Định hướng giai đoạn 2031 - 2050 đạt 10 - 15 tỷ m3/năm. Sản lượng khai thác than giai đoạn 2021 - 2030 khoảng 41-47 triệu tấn than thương phẩm/năm. Định hướng giai đoạn 2031 - 2050, khoảng 39 triệu tấn than thương phẩm vào năm 2045, khoảng 33 triệu tấn than thương phẩm vào năm 2050. Phấn đấu trước năm 2040 đưa vào vận hành thử nghiệm khai thác tại Bể than sông Hồng và tiến tới khai thác quy mô công nghiệp trước năm 2050 (nếu thử nghiệm thành công).

Cùng với đó, tập trung phát triển ngành công nghiệp năng lượng hướng tới trở thành trung tâm công nghiệp năng lượng sạch và xuất khẩu năng lượng tái tạo của khu vực, hình thành và phát triển các trung tâm năng lượng tái tạo tại các vùng và các địa phương có lợi thế. Phấn đấu đến 2030, hình thành và phát triển một số trung tâm năng lượng sạch bao gồm sản xuất và sử dụng năng lượng, công nghiệp chế tạo thiết bị năng lượng tái tạo, chế biến dầu khí, xây dựng, lắp đặt, dịch vụ liên quan tại Bắc Bộ, Nam Trung Bộ, Nam Bộ khi có các điều kiện thuận lợi. Phát triển sản xuất năng lượng mới phục vụ nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Đến năm 2030, quy mô công suất sản xuất hydro xanh khoảng 100 - 200 nghìn tấn/năm và định hướng đến năm 2050, đạt khoảng 10-20 triệu tấn/năm.

Để đạt được các mục tiêu trên, Quy hoạch đặt ra 6 giải pháp thực hiện về: Huy động và phân bổ vốn đầu tư; cơ chế, chính sách; môi trường, khoa học và công nghệ; phát triển nguồn nhân lực; hợp tác quốc tế; tổ chức thực hiện và giám sát thực hiện quy hoạch.

(Nguồn: Ngày Nay)

 

Hướng Hóa, khai thác tiềm năng, lợi thế để phát triển điện gió

Lê Trường |

Thực hiện chính sách thu hút các doanh nghiệp đầu tư phát triển lĩnh vực năng lượng tái tạo của tỉnh, huyện Hướng Hóa (Quảng Trị) là địa phương có nhiều dự án điện gió được triển khai thực hiện. Đây chính là bước đột phá góp phần làm tăng nguồn thu ngân sách, giải quyết việc làm, bảo vệ môi trường. Qua đó, thúc đẩy KT-XH của địa phương ngày càng phát triển.

Quảng Trị có thêm 25,5MW điện gió của Nhà máy điện gió Hướng Hiệp 1 được đưa vào vận hành thương mại

Thanh Trúc |

Thông tin từ Công ty Mua bán điện (EPTC), Tập đoàn Điện lực Việt Nam cho biết, công ty đã thống nhất ngày vận hành vận hành thương mại (COD) các tuabin WT1, WT2, WT3, WT5, WT6, WT7 của Nhà máy điện gió Hướng Hiệp 1 (Quảng Trị) từ thời điểm 12h00 ngày 31/5/2023. Theo đó, Quảng Trị có thêm 25,5MW điện gió của Nhà máy điện gió Hướng Hiệp 1 được đưa vào COD.

Mô hình SWOT khẳng định sự phù hợp của quy hoạch phát triển điện gió ở Quảng Trị

Tân Nguyên |

Để có căn cứ đề xuất chiến lược và giải pháp phát triển bền vững điện gió đến năm 2030 ở tỉnh Quảng Trị, trước hết cần phân tích tiềm năng thực tế về phát triển điện gió dựa trên mô hình SWOT (điểm mạnh/S-điểm yếu/W-cơ hội/O- thách thức/T). Đây là phương pháp đánh giá, phân tích một cách khách quan làm cơ sở cho việc hiện thực hóa chủ trương đưa Quảng Trị trở thành trung tâm năng lượng của miền Trung.

Tạo cơ sở để triển khai công tác quản lý, quy hoạch điện gió hiệu quả, bền vững

Tân Nguyên |

Nhiệm vụ điều tra, đánh giá tác động của các dự án điện gió đến môi trường, tài nguyên thiên nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn 2021-2025 và có tính đến năm 2030 do liên danh Trường Đại học Khoa học - Đại học Huế và Công ty Cổ phần Tư vấn Xây dựng và Khoáng sản DICO (Công ty DICO) thực hiện đã có báo cáo kết quả ban đầu.