Ký ức khó phai về thời gian học tập trên đất Bắc

Nguyễn Minh Đức |

Trong tổng số hơn 32.000 thiếu nhi, học sinh ở miền Nam tập kết ra Bắc học tập tại hệ thống Trường học sinh miền Nam trên đất Bắc theo chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng, có hàng trăm thiếu nhi, học sinh Quảng Trị. Gặp gỡ, trò chuyện với những cựu học sinh ấy, chúng tôi được nghe nhiều câu chuyện cảm động về hành trình vượt qua mọi gian khó, sự nỗ lực trong học tập, rèn luyện và kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng... Trải qua nhiều vị trí công tác cho đến ngày nghỉ hưu, họ vẫn giữ vững phẩm chất, phát huy truyền thống đoàn kết, nghĩa tình và ngọn lửa cống hiến, làm gương sáng cho con cháu noi theo.

Nhiều kỷ niệm khó quên

Chúng tôi đến thăm bà Hoàng Thị Kim Lịch (sinh năm 1943) - một cựu học sinh miền Nam trên đất Bắc nay sống tại phường Đông Giang, TP. Đông Hà. Nói về những tháng năm tập kết ra Bắc đầy ắp kỷ niệm, bà bồi hồi kể: “Tháng 10/1954, ba mẹ gọi tôi đến để nói chuyện chuyển ra miền Bắc theo diện con cán bộ kháng chiến và dặn dò cố gắng học tập nên người sau này trở về góp sức xây dựng quê hương. Lúc đó, tôi vui vẻ lắm và mường tượng ra bao nhiêu điều tốt đẹp chờ đợi mình phía trước”.

Tháng 10/1954, Lịch tạm biệt gia đình, theo một cán bộ cách mạng thực hiện hành trình ra Bắc. Những ngày đầu, Lịch mới hơn 10 tuổi cảm thấy vui sướng, quên đi mệt mỏi vì luôn nhận được sự quan tâm, chăm sóc chu đáo từ các cán bộ cách mạng và được làm quen thêm nhiều bạn bè mới gia nhập đoàn ra Bắc. Đến khi dừng chân lâu ngày ở tỉnh Hà Tĩnh, cô mới cảm thấy nhớ nhà. Lịch tự lên dây cót tinh thần tự nhủ phải mạnh mẽ hơn. Từ đó, Lịch vững bước tiếp tục ra tận Hải Phòng, nhập học Trường học sinh miền Nam số 7.

Ông Nguyễn Đăng Tam luôn biết ơn Đảng, Bác Hồ và khắc cốt ghi tâm những ân tình sâu nặng của cán bộ, người dân miền Bắc - Ảnh: M.Đ
Ông Nguyễn Đăng Tam luôn biết ơn Đảng, Bác Hồ và khắc cốt ghi tâm những ân tình sâu nặng của cán bộ, người dân miền Bắc - Ảnh: M.Đ

“Hệ thống trường học sinh miền Nam trên đất Bắc là mô hình đào tạo đặc biệt với chính sách ưu tiên cho con em miền Nam. Ở đó, chúng tôi ăn ở tập trung, được trang bị đầy đủ áo quần, sách vở, dụng cụ học tập và đặc biệt là luôn nhận sự quan tâm chăm lo, giúp đỡ về mọi mặt của đội ngũ giáo viên, nhân viên y tế, bảo mẫu”, bà Lịch nhớ lại.

Học sinh miền Nam tập kết ra Bắc năm 1954 đa phần không có ba mẹ đi cùng nên luôn nhận được nhiều tình cảm của thầy, cô giáo, đồng bào miền Bắc. Đó thực sự là những kỷ niệm đẹp theo suốt cuộc đời của họ, để mỗi khi nhắc đến ai nấy đều bồi hồi, xúc động. Mỗi học sinh miền Nam khi ấy luôn biết ơn vì được đào tạo toàn diện, từ học làm người, rèn luyện nhân cách, tính trung thực, lòng biết ơn, ý thức tập thể, tinh thần đoàn kết, sự dấn thân và tinh thần cống hiến...

Ông Đoàn Đình Tánh, nguyên Phó Chánh Văn phòng Tỉnh ủy Quảng Trị (sinh năm 1945) cho biết: “Tháng 8/1954, tôi và chị gái được mẹ đưa từ quê nhà là xã Triệu Thành, huyện Triệu Phong ra Hồ Xá, huyện Vĩnh Linh để nhập đoàn học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Từ biệt mẹ, tôi hứa sẽ cố gắng học tập, rèn luyện tốt.

Khi ấy, dù còn nhỏ nhưng tôi đã ý thức được chuyến đi của mình và bạn bè đồng trang lứa rất đặc biệt, phải cố gắng ăn học thành người để trở về chiến đấu và xây dựng lại quê hương. Hành trình ra Bắc của những cô bé, cậu nhóc lên 8 lên 9 tuổi dẫu nhọc nhằn, vất vả nhưng luôn nhận được sự động viên và tình yêu thương từ các cán bộ và người dân.

Khắc ghi muôn vạn ân tình

Từ những kỷ niệm đẹp khó phai nên suốt 70 năm qua, trong trái tim những học sinh Quảng Trị tập kết ra Bắc luôn giữ trọn vẹn lòng biết ơn sâu sắc đến đồng bào miền Bắc, công ơn của Đảng và Bác Hồ.

Ông Nguyễn Đăng Tam (sinh năm 1945), nguyên Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Trị kể lại: “Lên 9 tuổi, tôi được ra Bắc học tập. Học sinh miền Nam được đối xử như những đứa “con cưng” trong lòng miền Bắc. Bác Hồ và Trung ương Đảng luôn dành sự quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất để ưu tiên cho chúng tôi được học hành bài bản, làm nòng cốt trở về chiến đấu bảo vệ, xây dựng và phát triển quê hương.

Các thầy, cô giáo của miền Bắc thân yêu đã thay cha, thay mẹ chăm lo cho chúng tôi chu đáo từng miếng ăn, giấc ngủ. Được sống trong một môi trường học tập tốt nhất lúc bấy giờ, tôi luôn biết ơn Đảng, Bác Hồ và khắc cốt ghi tâm những ân tình sâu nặng của cán bộ, người dân miền Bắc”.

“Chúng tôi được sống, học tập và nên người là nhờ ơn Đảng, ơn Bác Hồ và sự đùm bọc, chở che, dạy dỗ của các thầy, các cô cũng như đồng bào miền Bắc. Vì thế trong mỗi suy nghĩ, việc làm của tôi đều luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng và ra sức thi đua học tập, rèn luyện tốt để xứng đáng với ân tình sâu nặng đó...”, bà Kim Lịch xúc động nói.

Quả đúng như vậy, suốt quãng đời học sinh, sinh viên, Kim Lịch luôn là một tấm gương sáng trong học tập và xung kích trong các phong trào, hoạt động đoàn; được thầy, cô tin yêu, bạn bè quý trọng. Năm 1965, bà được cấp trên đưa đi học tập tại Trung Quốc hơn 1 năm, rồi trở về học tại Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đến năm 1970, tốt nghiệp đại học, Kim Lịch trở thành cô giáo dạy môn Sinh học.

Hiện thực hóa khát vọng cống hiến

Sau khi học xong Đại học Thủy lợi vào năm 1971, chàng trai trẻ Nguyễn Đăng Tam viết đơn xin đi miền Nam nhưng chưa thành và được phân công về làm cán bộ nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu khoa học Thủy lợi, Bộ Thủy lợi. Đến năm 1973, ông Tam vui mừng khi được điều động trở về Quảng Trị công tác tại Ty Nông lâm ngư thủy. Được bổ nhiệm nhiều công việc khác nhau, ở vị trí công tác nào ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, để lại nhiều dấu ấn về tinh thần làm việc đầy tâm huyết, trách nhiệm.

Cũng như ông Tam, sau những tháng ngày học tập, rèn luyện nơi đất Bắc, bà Lịch vui mừng khôn xiết khi được cấp trên đồng ý cho trở về quê hương. Lúc bấy giờ, dù đã có việc làm ổn định ở Hòa Bình, nhưng cô giáo Kim Lịch không so đo tính toán thiệt hơn mà nhanh chóng lên đường, bởi hai tiếng “quê hương” đầy thiêng liêng đang thúc giục.

Hàng trăm cựu học sinh Quảng Trị trưởng thành từ các trường học sinh miền Nam trên đất Bắc trở về đều mang theo biết bao hoài bão và mong muốn góp sức mình vào công cuộc xây dựng, phát triển quê hương. Những phẩm chất quý báu của học sinh miền Nam luôn được họ thể hiện rõ trong công việc cũng như trong cuộc sống.

Ông Đoàn Đình Tánh cho hay, năm 2000, Ban liên lạc học sinh miền Nam tỉnh Quảng Trị được thành lập với khoảng 320 thành viên chính thức. Nhiều học sinh miền Nam người Quảng Trị trở thành cán bộ chủ chốt trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục... với những đóng góp quan trọng trong từng vị trí công tác. Tinh thần đoàn kết, hỗ trợ lẫn nhau luôn được phát huy; trực tiếp đóng góp tiền của và vận động thêm nhiều nguồn lực xây nhà tình nghĩa cho các gia đình có công với cách mạng, tặng quà cho người nghèo...

Đến khi nghỉ hưu, nhiều người vẫn còn hăng hái tham gia và có nhiều đóng góp cho các hoạt động ở địa phương với tinh thần “còn sức khỏe, còn cống hiến”. Trong mỗi gia đình, họ là những tấm gương sáng về việc dạy dỗ, chăm sóc, nuôi dạy con cái nên người, trong đó nhiều người có con, cháu thành đạt, hiện đang giữ chức vụ quan trọng trong các cơ quan nhà nước.

Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Nguyễn Quốc Khánh chia sẻ: “Tôi luôn tự hào về ba mình và những học sinh miền Nam ngày ấy bởi họ được đào tạo trong một môi trường tốt nhất lúc bấy giờ để trở thành những con người tài năng, có bản lĩnh và ý chí, có lý tưởng và hoài bão cao đẹp.

Luôn kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng, một lòng theo Đảng, theo Bác Hồ và sẵn sàng dấn thân vào những nhiệm vụ khó khăn, hiểm nguy để cống hiến cho quê hương, từ đó trao truyền ngọn lửa để thế hệ mai sau không ngừng phấn đấu noi theo, viết tiếp truyền thống cha ông trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

(Nguồn: Báo Quảng Trị)

Tháp xanh Lê Mậu Lộ

Nguyễn Quang Hà |

Chốn xưa Tân Lâm giờ còn ai của ngày xưa ấy? Sau gần một nửa thế kỷ, ai nhớ ai quên? Gặp lại nhạc sĩ Mai Xuân Hòa từ Sài Gòn trở về thăm Huế, vẫn còn phong độ dù tuổi đã trên 90, chúng tôi đã hỏi nhau như vậy. Và nhớ rất nhiều anh Lê Mậu Lộ, vị giám đốc đầu tiên của Nông trường Tân Lâm.

Tục chia hồn lúa của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô

Hoàng Ngọc Thiệp |

Sinh sống trong điều kiện môi trường núi rừng, cuộc sống của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô chủ yếu dựa trên canh tác lúa nương và săn bắn hái lượm, một cách thức sinh tồn cơ bản, phổ biến và kéo dài. Chính vì thế, trong đời sống của họ cũng như của các tộc người bản địa khác sinh sống trên dãy Trường Sơn nói chung vẫn còn những tập tục phản ánh nhiều dấu ấn của xã hội thời kỳ nguyên thủy, biểu hiện rõ nét nhất qua chu trình sinh trưởng của cây lúa.

Ký ức ngày Hòa bình

Nguyễn Xuân Sang |

Ngày 28.4.1972 Đông Hà được giải phóng, mở đường cho quân và dân trong toàn tỉnh thừa thắng xông lên tiêu diệt địch. Ngày 01.5.1972 giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Sau đó quân giải phóng tiến quân như vũ bão giải phóng lần lượt các tỉnh thành phía Nam. Ngày 30.4.1975 , chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, miền Nam và cả nước ngập tràn sắc đỏ cờ, hoa mừng ngày hội lớn, ngày hội đại thắng của toàn dân tộc Việt Nam.

Nhắc đến chiến tranh là để giữ lấy hòa bình

Phạm Xuân Hùng |

Không phải ngẫu nhiên mà phim về đề tài chiến tranh vẫn được nhiều người hâm mộ. Riêng Oscar lần thứ 96 năm 2024 danh giá ở Mỹ đã dành ngôi vị  Phim xuất sắc nhất cho phim Oppenheimer nói về cuộc đời của cha đẻ bom nguyên tử và nỗi kinh hoàng của nước Nhật phải nếm trải, cũng như nhân loại từ đó về sau phải đối mặt với lo âu. Kế đó là phim Zone of Interrest (Vùng quan tâm) đoạt giải Phim nước ngoài xuất sắc nhất cũng có đề tài chiến tranh, nội dung nói về cuộc chiến bài Do Thái của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới II.