Tục chia hồn lúa của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô

Hoàng Ngọc Thiệp |

Sinh sống trong điều kiện môi trường núi rừng, cuộc sống của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô chủ yếu dựa trên canh tác lúa nương và săn bắn hái lượm, một cách thức sinh tồn cơ bản, phổ biến và kéo dài. Chính vì thế, trong đời sống của họ cũng như của các tộc người bản địa khác sinh sống trên dãy Trường Sơn nói chung vẫn còn những tập tục phản ánh nhiều dấu ấn của xã hội thời kỳ nguyên thủy, biểu hiện rõ nét nhất qua chu trình sinh trưởng của cây lúa.

Xuất phát từ quan niệm có từ thời nguyên thủy “vạn vật hữu linh” nên trong cuộc sống của họ mọi sinh vật đều có linh hồn, nhưng duy nhất hạt lúa là một thực phẩm thiêng liêng do trời ban xuống cho con người và có linh hồn giống con người, được thần thánh hóa (giàng A bôn), được nâng lên địa vị tối cao trong hệ thống thần linh thờ cúng của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô. Giàng A bôn là nguồn sống thiêng liêng, là thần linh che chở cho loại lương thực cơ bản nhất của họ, đó chính là hạt lúa. Giống như thần bản mệnh (Chiết/Cợt) bảo vệ và giám sát con người ngay từ lúc vừa ra đời, sự sinh tồn, phát triển của lúa sẽ phụ thuộc vào giàng A bôn.

Già làng trưởng họ - Người giữ hồn lúa - Ảnh: Hồ Giỏi
Già làng trưởng họ - Người giữ hồn lúa - Ảnh: Hồ Giỏi

Trong một chu kỳ trồng lúa nương truyền thống của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô là một công việc phức tạp, trong đó tất cả các khâu đoạn đều được khởi đầu hoặc kèm theo một nghi lễ. Cây lúa không chỉ đơn giản là một loại cây trồng hay một loại lương thực mà hơn thế nó được coi là một thực thể sống có linh hồn. Họ hình dung thần lúa là một “bà cụ già” (A dã A bôn) sống trong cây lúa, được đặt tên là giàng A bôn. Khi bắt đầu một vụ trồng lúa, họ sẽ làm lễ “đánh thức” hạt giống (họ sẽ lấy một ít để làm lễ tại bàn thờ dành riêng cho A bôn), sau đó A bôn sẽ rời khỏi làng để chuyển ra rẫy. Họ sẽ dựng một cái lều nhỏ cho giàng ở đó. A bôn sẽ ở đó suốt vụ và “ứng vào” từng cây lúa. Trong quá trình đó, người ta phải tuân theo rất nhiều các tục lệ và điều cấm kị. Chẳng hạn, kể từ lúc bắt đầu gieo đến khi thu hoạch cây lúa cuối cùng, họ cấm đi trong đám lúa, cấm làm ô uế, đi tiểu tiện hay đại tiện, cấm làm ồn ào ở rẫy. Thậm chí, gọi tên cây lúa cũng không được, vì họ sợ sẽ làm A bôn đang sinh sống trong cây lúa sợ hãi và bỏ đi. Khi lúa chín, thì họ cấm tất cả những gì có thể làm A bôn đau: không được gặt lúa bằng liềm (sẽ cắt vào A bôn, làm thần chảy máu) hoặc không được đập lúa mạnh (sẽ làm thần bị đau). Chỉ được gặt lúa bằng tay, họ dùng những bàn tay trần để tuốt từng nhánh lúa, rồi nâng niu đặt các hạt lúa vào gùi đeo bên hông. Sau khi tuốt xong, bằng những hạt lúa trên những nhánh lúa cuối cùng, họ đón A bôn về nhà, đặt một vài hạt thóc trên bàn thờ dành cho A bôn, dâng cúng lễ vật tạ ơn A bôn (Cha đôi ta may, Cha xre) và A bôn sẽ được nghỉ ngơi ở đây cho đến khi được đánh thức vào đầu vụ trồng lúa tiếp theo.

Bàn thờ của giàng A bôn cũng có chút khác với các bàn thờ của các thần khác. Thay vì bản sao thu nhỏ một ngôi nhà, bàn thờ của A bôn chỉ có phần “hàng rào” đặt trong đó không phải là chén sứ mà là quả bầu hồ lô (A luôi). Tất cả những gì quan trọng với vụ lúa kết tinh trong hình tượng quả bầu hồ lô và hạt lúa: họ để tám hạt giống vào trong bầu hồ lô, đến đầu vụ sẽ đánh thức những hạt giống này. Lý do xuất hiện quả bầu hồ lô trên bàn thờ thần lúa có thể được giải thích bằng những chuyện thần thoại. Theo truyền thuyết về nguồn gốc của các tộc người, loài người bị thiệt hại lớn sau trận đại hồng thủy và các tộc người đã tái sinh từ quả bầu hồ lô.

Với vị trí quan trọng của giàng A bôn trong đời sống của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô như thế, nên trong không gian thờ cúng, bàn thờ giàng A bôn luôn luôn được xếp ở vị trí đầu tiên gắn trực tiếp lên cột ở góc thiêng của ngôi nhà, tạo thành góc vuông với các bàn thờ khác như là đang dõi theo, trông coi tất cả các bàn thờ khác. Hình ảnh này minh chứng hùng hồn về tầm quan trọng của giàng A bôn trong đời sống của người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô.

Đối với người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô, mỗi một dòng họ, việc thờ cúng giàng A bôn, giàng Cu múi/Kaneaq, Chiết/Cợt của các thành viên trong dòng họ được thực hiện tại nhà của trưởng họ. Những người trong cùng một dòng họ, cho dù đang sinh sống ở đâu đến khi thực hiện các nghi lễ theo phong tục (cúng cơm mới/cha đôi ta may, cha xre; thần bản mệnh/Chiết/Cợt) thì đều phải trở về để làm tròn bổn phận. Tuy nhiên, trong những trường hợp dân số của một dòng họ tăng nhanh, áp lực trong việc canh tác phải thực hiện xa nơi sinh sống, dẫn đến một số dòng họ muốn thuận lợi trong việc canh tác trên mảnh đất mới nên chuyển đến gần các mảnh đất đó, họ đã thành lập một chi mới ở đây. Hoặc trong trường hợp một bộ phận các dòng họ trong quá trình sinh sống tách riêng thành lập một dòng họ mới, một làng mới, nhưng trong đời sống phong tục tập quán phải quay lại làng gốc để thực hiện (lễ A da, lễ Ariêu ping), nó mất rất nhiều thời gian, họ cũng chia tách thành một chi mới, dòng họ mới độc lập với dòng họ ban đầu.

Để được có được sự độc lập trong việc thực hiện các nghi lễ liên quan đến phong tục tập quán thì phải có sự cắt đứt một phần hoặc hoàn toàn với làng gốc, họ gốc ban đầu. Đó là việc chia thần lúa - giàng A bôn. Đối với người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô việc này không thực sự phổ biến nhưng được luật tục cho phép. Tuy nhiên, trong mỗi cộng đồng người, sự cho phép này ở mức độ khác nhau: đối với người Bru - Vân Kiều họ cho phép chia thần lúa, nhưng không được phép chia giàng Kaneaq/Cu múi; người Tà Ôi/Pa Kô đã chia giàng A bôn thì chia luôn giàng Kaneaq, giàng Cợt.

Hình thức chia: - Người Bru - Vân Kiều, chuẩn bị lễ vật 1 con dê, 1 con heo và 7 con gà. Trưởng họ khấn với Kaneaq/Cu múi, A bôn về việc dòng họ chia tách A bôn. Sau đó đưa A bôn xuống, lấy 4 hạt lúa trong A bôn cũ bỏ vào trong A bôn mới giao cho trưởng họ mới. Sau đó dòng họ được chia phải chuẩn bị lễ vật 1 con heo và 7 con gà để mừng và an vị A bôn lên bàn thờ. Từ đây, mỗi lần làm lễ mừng lúa mới/Cha đôi ta may thì họ có quyền tổ chức riêng bao gồm những hộ gia đình mới được chia tách.

- Người Tà Ôi/Pa Kô. Sau khi đã thực hiện xong lễ Ariêu ping chung của cả dòng họ, với những lý do như nêu ở phần trên, họ chuẩn bị lễ vật một con dê hoặc heo, 1 con gà để báo với giàng Kaneaq/Cu múi, giàng A bôn, giàng Cợt về việc chia tách các thần này; người Tà Ôi/Pa Kô không đưa A bôn trên bàn thờ xuống mà chỉ khấn và lấy một hạt lúa từ rẫy của người trưởng họ bỏ vào trong giàng A bôn mới giao cho nhóm người chia tách để trở thành giàng A bôn mới. Đối với chia giàng Kaneaq/Cu múi thì người ta chia bằng cách: những người đứng đầu dòng họ đang thờ giàng Kaneaq với người được chia có cùng ngôi thứ, thì người trưởng họ cũ được phép giữ lại ông bà và những người là con, cháu của người mình; người được chia thì mang linh hồn của cha mẹ cùng con cháu của họ về lập nên bàn thờ mới. Còn giàng Cợt thì của ai liên quan trực tiếp đến người trưởng họ nào thì được thờ cúng tại đó. Sau khi đã chia xong, người được chia mang tất cả các vị thần đó về nơi sinh sống của mình và chuẩn bị lễ vật heo, gà để an vị các vị thần đó lên bàn thờ. Và từ đây thành lập một dòng họ mới, dòng họ này độc lập hoàn toàn với dòng họ cũ trong khi thực hiện các nghi lễ theo tập quán của người Tà Ôi/Pa Kô.

Ngày nay, trong cơ cấu phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, cây lúa không còn chiếm vị trị chủ đạo nữa mà thay vào đó là các loại cây công nghiệp cho giá trị kinh tế cao hơn, góp phần làm thay đổi đời sống của người dân. Đồng nghĩa với đó là sự thu hẹp diện tích đất dành cho lúa rẫy, kéo theo đó là sự thay đổi trong nhận thức của người dân đối với thần lúa - giàng A bôn. Ở giai đoạn thu hoạch, thay vì tuốt lúa bằng tay họ đã sử dụng liềm để cắt, sự thay đổi này tất nhiên phải thực hiện bằng nghi lễ và nhận được sự đồng thuận của giàng A bôn. Tuy nhiên, đối với người Bru - Vân Kiều, Tà Ôi/Pa Kô, giàng A bôn là vị thần mang lại đời sống ấm no cho họ và giàng A bôn luôn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tín ngưỡng của hai dân tộc này.

(Nguồn: Tạp chí Cửa Việt)

Ký ức ngày Hòa bình

Nguyễn Xuân Sang |

Ngày 28.4.1972 Đông Hà được giải phóng, mở đường cho quân và dân trong toàn tỉnh thừa thắng xông lên tiêu diệt địch. Ngày 01.5.1972 giải phóng hoàn toàn tỉnh Quảng Trị. Sau đó quân giải phóng tiến quân như vũ bão giải phóng lần lượt các tỉnh thành phía Nam. Ngày 30.4.1975 , chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng, miền Nam và cả nước ngập tràn sắc đỏ cờ, hoa mừng ngày hội lớn, ngày hội đại thắng của toàn dân tộc Việt Nam.

Nhắc đến chiến tranh là để giữ lấy hòa bình

Phạm Xuân Hùng |

Không phải ngẫu nhiên mà phim về đề tài chiến tranh vẫn được nhiều người hâm mộ. Riêng Oscar lần thứ 96 năm 2024 danh giá ở Mỹ đã dành ngôi vị  Phim xuất sắc nhất cho phim Oppenheimer nói về cuộc đời của cha đẻ bom nguyên tử và nỗi kinh hoàng của nước Nhật phải nếm trải, cũng như nhân loại từ đó về sau phải đối mặt với lo âu. Kế đó là phim Zone of Interrest (Vùng quan tâm) đoạt giải Phim nước ngoài xuất sắc nhất cũng có đề tài chiến tranh, nội dung nói về cuộc chiến bài Do Thái của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới II.

Có một dòng Thạch Hãn “chảy” trên Cửu đỉnh

An Khuê |

Sông Thạch Hãn (hay còn gọi là sông Ba Lòng, sông Quảng Trị) là con sông lớn nhất tỉnh Quảng Trị. Đây là con sông gắn liền với lịch sử tỉnh Quảng Trị. Tại vùng hạ nguồn, sông Thạch Hãn nối với sông Bến Hải qua sông Cánh Hòm, và nối với sông Ô Lâu qua sông Vĩnh Định. Bên cạnh lịch sử hào hùng, sông Thạch Hãn còn được nhiều người dân trên cả nước biết đến qua việc được chọn để khắc trên Cửu đình triều Nguyễn.

Nhà báo Đặng Minh Phương và chuyện chiếc võng dù bị pháo bắn

Mai Chí Vũ |

Năm 1966, nhà báo Đặng Minh Phương đang công tác tại Báo Nhân Dân, nhưng với niềm đam mê nghề báo, khát khao được vào chiến trường ông đã viết đơn xung phong vào Mặt trận Khu V, thực hiện nhiệm vụ tại tòa soạn Báo Cờ Giải phóng, cơ quan của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Trung Trung Bộ.