Bệnh nhân ung thư là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nên việc tiêm phòng vaccine cần được theo dõi chặt chẽ.
Các nghiên cứu hiện tại đã chỉ ra rằng hầu hết người được tiêm chủng đầy đủ (ít nhất hai tuần sau liều vaccine cuối cùng của họ) được bảo vệ khỏi bệnh nặng và tử vong do Covid-19, bao gồm cả biến chủng hiện có ở Mỹ.
FDA và CDC đã tuyên bố rằng những người đã được tiêm chủng đầy đủ không cần tiêm nhắc lại vào thời điểm này.
Tuy nhiên, các nghiên cứu ban đầu cho thấy sau khi tiêm vaccine, những người có hệ miễn dịch suy yếu như bệnh nhân ung thư có thể không được bảo vệ tốt trước Covid-19, tiêm thêm liều vaccine thứ 3 có thể giúp họ có phản ứng miễn dịch mạnh hơn.
CDC hiện khuyến nghị tiêm liều thứ 3 của hai loại vaccine này cho những người có hệ miễn dịch suy yếu từ mức độ trung bình đến nghiêm trọng.
Những người có hệ miễn dịch suy giảm bao gồm:
- Bệnh nhân đang được điều trị ung thư tích cực (u đặc hoặc ung thư hệ tạo máu).
- Bệnh nhân được ghép tế bào gốc trong vòng 2 năm hoặc đang dùng thuốc ức chế miễn dịch.
- Bệnh nhân đang điều trị tích cực bằng corticosteroid liều cao hoặc các loại thuốc khác có thể ức chế phản ứng miễn dịch.
Liều vaccine thứ 3 nên được tiêm sau liều thứ 2 ít nhất 4 tuần. Bệnh nhân nên sử dụng cùng một loại vaccine mRNA cho liều thứ 3. Nếu không có loại tương tự (hoặc không biết một người đã tiêm loại vaccine mRNA nào), bệnh nhân có thể tiêm vaccine mRNA khác cho liều thứ 3.
Tại Việt Nam, Bộ Y tế chưa khuyến cáo tiêm vaccine Covid-19 liều thứ 3 cho bệnh nhân ung thư hoặc có suy giảm miễn dịch.
Các tác dụng phụ thường gặp sau khi tiêm vaccine là đau tại vị trí tiêm, mệt mỏi và đau nhức cơ. Sốt và ớn lạnh cũng có thể xảy ra, đặc biệt là sau tiêm liều thứ 2.
Sau khi tiêm phòng, một số người có thể nổi hạch bạch huyết. Hạch bạch huyết thường xảy ra nhất ở dưới cánh tay hoặc ở cổ bên cạnh nơi tiêm. Ung thư cũng có thể gây ra hạch to nên bạn cần nhận ra đây là một tác dụng phụ có thể xảy ra và thường không phải dấu hiệu bệnh đang tiến triển.
Các hạch to thường mềm khi chạm vào và sẽ tự biến mất, đôi khi có thể kéo dài trong vài tuần. Các bệnh nhân ung thư nên liên hệ với bác sĩ của mình nếu các hạch to không giảm đi trong 3-4 tuần sau khi tiêm liều vaccine thứ 2.
Trong một số trường hợp, bác sĩ có thể khuyên bạn nên trì hoãn các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh để hạch bạch huyết to lên do vaccine không bị nhầm lẫn với ung thư tiến triển. Nếu bạn thực hiện chẩn đoán hình ảnh ngay sau khi tiêm, bạn cần nói cho bác sĩ biết đã tiêm vaccine.
Nếu có sẵn vaccine, bạn có thể trì hoãn việc bắt đầu một số phương pháp điều trị ung thư không khẩn cấp cho đến khi hoàn tất tiêm chủng.
Dù vậy, một số gười bệnh không nên trì hoãn hầu hết phương pháp điều trị ung thư để đợi tiêm chủng. Bác sĩ điều trị có thể tư vấn về thời gian tiêm chủng liên quan việc điều trị ung thư của bệnh nhân.
Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC) khuyến cáo bất kỳ ai từ 12 tuổi trở lên đều được tiêm vaccine, điều này bao gồm cả những người đã và đang bị ung thư. Theo khuyến cáo của Bộ Y tế Việt Nam, người bệnh ung thư thuộc nhóm nguy cơ cao và được ưu tiên tiêm vaccine Covid-19.
Một số phương pháp điều trị ung thư như hóa trị, xạ trị, cấy ghép tế bào gốc hoặc liệu pháp miễn dịch có thể ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch, làm cho vaccine kém hiệu quả hơn.
Những người mắc một số loại ung thư như bạch cầu hoặc u lympho cũng có thể bị suy yếu hệ thống miễn dịch. Hiệu lực của vaccine có thể giảm bớt.
Các chuyên gia vẫn khuyến cáo hầu hết bệnh nhân ung thư nên tiêm vaccine vì có nguy cơ mắc Covid-19 nghiêm trọng. Do đó, người bệnh nhận được một số lợi ích từ vaccine vẫn tốt hơn là không có bất kỳ sự bảo vệ nào.
Bệnh nhân ung thư không nên ngần ngại khi được tiêm vaccine phòng Covid-19 vì đây là quyền lợi cho bản thân và trách nhiệm với cộng đồng.
(Nguồn: Phụ nữ mới)