Nhiều lúc ngồi thẫn thờ nhìn đàn trâu, bò gặm cỏ dọc triền đê chợt giật mình: cỏ quê mình thưa dần theo từng tiếng chuông trâu. Nỗi sợ hãi về một ngày kia ở quanh sân nhà không còn thấy cỏ cứ bám lấy mình. Đó là nỗi lo bao đồng chăng? Con người hiện đại đang xa dần thiên nhiên. Mà cỏ lá là một đại diện sáng giá?
Trong vùng ký ức xa mờ, mình thấy cỏ quê hương ngút ngàn như trong câu thơ của Nguyễn Du: Cỏ non xanh rợn chân trời. Cỏ từ chân đê, chạy dọc bờ ruộng đến cổng nhà, lan vào thềm sân nhà, quanh nương. Cỏ gần gũi đến nỗi trong mỗi giấc ngủ còn thấy mùi hương.Nhớ trước đình làng là một bãi đất rộng, xung quanh chẳng hàng rào chắn. Chiều nào bọn trẻ trong làng cũng ra đó mà lăn lộn, chơi đùa. Cỏ mọc san sát tạo nên một tấm thảm êm thà hồ nhảy múa. Nhiều lúc nằm lên cỏ nhìn bầu trời trong xanh có đàn có trắng bay qua thật yên ả. Mùi cỏ xông lên cùng với mùi hương của đất làm nên hương vị đồng quê mà dù đến chân trời cuối đất vẫn không sao quên được.
Mỗi lần làng có lễ hội, khoảng sân rộng ấy như một tấm chiếu lớn để người dân trong làng tập trung. Và cứ thế, ngồi lên cỏ mà chẳng cần tấm chiếu hoa nào cả. Có lẽ cũng tại bãi đất trồng đầy cỏ giữa đình làng này, lớp lớp người lăn tròn, chơi đùa trên cỏ giờ thành kẻ trăm năm; cũng biết bao lớp người quỳ gối lên cỏ để bái vọng vô ngôi đình mỗi lúc khăn áo lên đường đi xa. Đến mỗi một mùa xuân, họ nhớ về ngôi đình nhỏ bé, nhớ về bãi cỏ xanh non trong đáy ký ức xa mờ nào đó.
Những năm chiến tranh, làng quê xơ xác. Ruộng đồng, bờ ao bị giặc cày xới. Những bụi tre vững chãi nhất cũng bị đạn bom quật ngả. Lúc này cỏ là như một loài hiên ngang mà vô tư nhất giữa mùi thuốc súng, đạn bom. Bọn giặc không thể giẫm đạp hay phá hết những bờ cỏ bình yên của làng. Chợt nhớ đến câu nói của ông Nguyễn Trung Trực: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, nước Nam mới hết người đánh Tây”. Đó phải chăng là sức sống của cỏ cũng như sự trường tồn của những lớp người cần lao dám hi sinh tất cả để bảo vệ từng tấc đất của quê hương xứ sở.
Mình có người bạn ở thành phố. Nhà cửa chật chội nhưng trên sân thượng nhỏ bé của tòa nhà là những chậu cỏ, xen lẫn có thêm chậu mạ non. Trồng những thứ ấy chỉ đơn giản để cái không gian của phố thị có chút chân quê, có chút cỏ dại để chiều chiều trốn lên đó mà thưởng ngoạn, mà hồn nhiên!
Đã bao giờ cỏ trở thành một thứ cần thiết như oxy, nước uống cho một ai đó? Cỏ không có cái thiên chức đó nhưng cỏ có một vị trí nào đó trong đời sống của xã hội. Bởi vậy trong tùy bút Miền cỏ thơm của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, ông xem màu xanh cỏ lá như linh hồn xứ Huế. Dường như thành phố Huế được dành cho cỏ là vậy!
Cỏ thưa dần theo những tiếng chuông trâu. Những con đường dài hun hút xuyên thôn, xuyên xã bằng bêtông; những chiếc sân trước đình, trước nhà đều bêtông. Những ngôi nhà san sát, những nhà máy mọc lên vô tội vạ... Đám con nít trong làng thay áo sau một ngày rong chơi chẳng vương mùi cỏ nữa. Cỏ đã đi đâu?
Đã có lần mình đi dọc đường Chín, từ thành phố Đông Hà đến Savanakhet trên đất Lào. Trái với đất Việt, những cái sân cơ quan, nhà dân hai bên đường thường bêtông hóa. Từ nhà đến đường chẳng dính đất. Còn phía bên kia nước bạn Lào, những ngôi nhà ngăn nắp, chẳng cần hàng rào và phía trước là cái sân rộng rãi đầy cỏ mọc. Từ nhà dân cho đến cơ quan nhà nước, chỉ cần bước xuống thềm hiên là hòa mình vào cỏ, vào thiên nhiên!
Lại nhớ câu chuyện liên quan đến cỏ. Một hôm Khổng Tử ra chơi ngoài đồng, thấy một người đàn bà đứng khóc nỉ non ở chỗ bờ đầm, Đức Khổng Tử lấy làm lạ, bảo học trò hỏi vì cớ gì mà khóc. Người đàn bà nói: "Độ trước tôi cắt cỏ thi, tôi đánh mất cái trâm cài đầu bằng cỏ thi, cho nên tôi khóc." Đức Khổng Tử hỏi: "Đi cắt cỏ thi, mà mất cái trâm làm bằng cỏ thi thì việc gì phải khóc?" Người đàn bà nói: "Không phải vì tôi đánh mất cái trâm cỏ thi mà tôi khóc; tôi sở dĩ khóc là tôi thương tiếc một vật cũ, dùng đã lâu, mà ngày nay không sao thấy được nữa."
Trong giấc mơ mình thường đi tìm cỏ. Loài cỏ non mọc san sát dưới chân tạo thành chiếc thảm chứ không phải cỏ thi. Mỗi một mùa xuân mình muốn hòa mình vào đám cỏ.
Tìm cỏ ở đâu?