Nhặt năm, ba bài, trong gần 70 bài thơ của Yên Mã Sơn. Đọc đi đọc lại vài chục lần. Và nghĩ, khi các nhà thơ ở tỉnh đã thôi làm thơ, hoặc làm không được thơ thì Yên Mã Sơn chấp bút viết thơ.
Yên Mã Sơn viết cả trăm bài, mà bài nào đọc cũng phải nghĩ, đọc phải chậm lại. Rồi mơ màng, cái kiểu như người ta nói “cô gái kia đẹp không tưởng nỗi” thì ta cũng cố mà tưởng ra, một cô gái đẹp trong trí óc của mình. Thơ của gã này cũng thế, hay, ngọt và mộng mơ. Cái này để nói sau. Ta cứ đi từ niềm đau trước, để kết thúc là liều thuốc cho con tim hạnh phúc, mặc dù đó là hạnh phúc trong thơ ca, tình yêu trong những trang viết, có thể chỉ là khát khao.
Niềm đau trong thơ Yên Mã Sơn không phải thường tình, nó đã hóa đá. Có cả mấy chục bài thơ đau mà nỗi đau nào cũng “cầm” được. Lẽ người đọc phải nghĩ, có phải đây là nỗi đau mà tác giả muốn “trao tay”. Có thể cho người thơ, cũng có thể cho người đọc thơ, chuyền cho nhau, ngẫm sự đau ở đời, để thấy trong tình yêu có vô số niềm đau, lớn nhỏ gì cũng có. Nó nằm ở lại, ở những câu thơ.
“Chùa chiều
Lời kinh đã hóa thạch
Đài cao đổ bóng xuống trăm năm
Những bậc thềm rêu
Sân si đôi lần trượt ngã”
(Cây sala trổ hết hoa)
Tôi cho rằng, Yên Mã Sơn đã trao người một điều: khi tu nên xét lại! Đến chùa coi trượt chân. Có bằng chứng hẳn hoi, khi tới cửa chùa đã nghe đau. Phải chăng, như người ta dòm ngó, về một món ngon nên “hù” người kia cảnh giới, để người trở về, hoặc không đến nơi kia. Nhà thơ viết như thế này, trong bài “Cây sala trổ hết hoa”.
“Cây sala trổ hết hoa
Đỏ sân chùa
Ta thấy em trong trầm tích của luân hồi
Giữa bộn bề khát cháy
Giữa cơn đau ngoài cánh cửa tam quan”
Chẳng biết em có đau không, nhưng ta thấy đau. Người đời thường như thế, huống chi nhà thơ. Nhìn đâu cũng thấy xốn xang, chưa kể một nửa lãng du giữa trời đất còn nửa kia ở gốc sala. Chưa kể đến lúc nhìn nhưng không thấy, biệt tăm kể cả những hoài niệm. Lúc này, nhà thơ mới là người chịu sự tra tấn của cõi trần gian.
“Chiều dài lắm và mây trời xa lắm
Cánh chim say bay mãi bỏ quên ngày
Đường phố chiều loài người muôn thế kỷ
Ôi dỗi hờn, ôi cơm áo qua tay…
Chiều khép rồi trời sót lại vầng trăng
Nơi thinh không tiếng chuông đỗ thức đời
Người Bồ Tát, ta Bồ Tát ai cũng Bồ Tát
Áo nâu sòng không đủ mặc em ơi!”
(Vô Định)
Đâu phải khao khát áo cơm. Mà chính sự dửng dưng của một ai khiến người làm thơ trổ chứng. Cái sự lơ đãng (cánh chim say bay mãi bỏ quên ngày) kéo theo thời gian (đường phố chiều loài người muôn thế kỷ) và hệ quả là sự đói rét (áo nâu sòng không đủ mặc em ơi!) về tình yêu. Dù sao đọc những câu này vẫn thấy vui, bởi trong cái “dung dăng dung dẻ” của tình cảm, nhà thơ "đỗ lì" như một đứa trẻ, ăn vạ với nhân gian. Kiểu như, anh bảo rồi mà em không nghe, giờ ra nông nỗi này ai mà chịu được. Thử nghe, mấy câu này trong “Ngàn xưa”.
“Giờ em về mô trong đau thương?
Ôm tình yêu nửa mùa cháy bổng
Có thể lắm
Nơi em đến cũng có mái nhà gió lộng
Sau cánh cửa
tâm hồn
còn đau”.
Ta thử trở ngược về với cảm thức, của “Ngàn xưa”, mà trong đây, nhà thơ Yên Mã Sơn xem như tươi mới.
“Mới ngày nào thôi
Em đi về phía anh với nụ cười hai mươi tuổi
Tình yêu nhiều nông nổi
Hạnh phúc từ cay đắng của ngày xanh
Mới ngày nào thôi
Em mơ một mái nhà rủ mình sau cánh cổng
Cửa sổ chiều gió lộng
Em tựa cuộc đời vào lưng anh chải tóc
Cuộc đời hai ta trần tục
Những ước mơ không thể hóa đời thường...”
Đọc nốt những câu, trong “Từng khúc”
“Mưa như chặt nỗi buồn ra từng khúc
Từng khúc im lặng, từng khúc im lặng
Em điềm nhiên trú mưa
Chợ đông, từng khúc âm vang
Ngày mới lớn
Ngực bình minh
Bao lần phơi niềm vui giữa sân đình bằng cách đợi chờ một cơn mưa
Từng khúc, từng khúc im lặng
Mà lòng từng khúc âm vang
Ngày yêu
Em ước có thể chặt thời gian ra từng khúc
Nỗi buồn huyền hoặc
Nỗi buồn cỏ lá
Xanh ngắt thảo nguyên”
Thơ Yên Mã Sơn, nó như cuốn gia phả tình yêu, đám đàn bà trong đó cứ chen chúc nhau, chẳng biết ai là vợ cả. Có lẽ, trở lại câu “người Bồ Tát, ta Bồ Tát ai cũng Bồ Tát” để nhại lại một chút, rằng ai nhà thơ cũng yêu thì dễ bề sinh chuyện. Mà lúc này, chuyện nó không xuất phát từ phía nhà thơ, anh là người bị… muôn người giằng xé.
“Từ đỉnh đầu dội một cơn đau
Biết xa khơi biển động
Gió trở trời
Chiếc lá nghiêng con sâu rọi ánh nhìn
Phía chân mây
Vực ngày vời vợi
Phía chân mây vực môi
Ngả rơi
Những nụ hôn chới với”
(Vực môi)
Như con ngựa hoang đi giữa sơn nguyên, lúc khát tình gọi bạn. Thơ Yên Mã Sơn là tiếng lòng. Nói như dân Trị - Thiên “nghe thổn thức trong lòng như răng thì viết rứa”. Nên, đừng cố mày mò, tìm chút nghệ thuật hay đỉnh cao thơ ca. Chỉ là, đọc thấy hay, thấy suối nguồn trong veo yêu thương giữa đùng đục những niềm đau.Có thể đó là gia sản của nhà thơ, khi khối thứ xung quanh chi phối, tìm được rồi mất đi, có được rồi dùng hết… thì thơ ở lại với cuộc đời này. Cũng như người nông dân ở miền sơn cước, cứ hỏi sao đá không nảy mầm. Có vẻ như tuyệt vọng, nhưng đấy là sự khát khao chờ mong. Không cớ chi lấy đó làm tuyệt vọng, mặc khi, hỏi: Sao đá không nảy mầm?
“Tuổi qua bao mùa rẫy
Khuôn mặt như ruộng khô nắng cháy
Những cây rựa sắc như cắt được bầu trời
Cắt được lời nguyền bên kia núi…
Người đàn ông gieo hạt trên đỉnh đồi
Gieo hòn đá cuội
Gieo tiếng hú của loài vượn trong hang
Gieo bóng mình khô khốc
Và ngồi đợi niềm vui
Trong nếp nhà sàn khói bưng chiều
Bậc thang mòn khoét đời hao khuyết
Ngàn năm rừng xanh
Sao đá không nảy mầm?”
(Đá nảy mầm)
Yên Mã Sơn là người hay trăn trở. Và có khi thách thức, nhất là lẽ ghét thương ở đời. Hàm trong đó có đúng sai. Giữa mênh mông bát ngát người (và lòng người) anh vẫn đứng, không chông chênh để rồi nhìn xuống, phân tách, có lúc phán xử. Nhưng, cũng chẳng dễ gì. Tôi thấy, Yên Mã Sơn đang đau, như thân phận hòn đá trong câu thơ này “Từ ngày loài đá chết đi/ Sau cú vụt sáng của một vì sao lạc” trong bài “Ý thức điên".
Có lẽ cũng đến lúc tìm được “người vợ cả” trong cuốn gia phả tình yêu của Yên Mã Sơn. Đọc trọn bài thơ này, tôi đồng ý với điều mình vừa chọn.
“Chia đôi bờ
Dòng sông lặng lẽ soi mình trong tiền kiếp
Những chiếc bình gốm rúc trong lớp bùn đang chờ ngày thành đồ cổ
Riêng mặt trời đã thấy mình trẻ con
Giữa hằng hà sa số đau thương và hoan lạc
Từ ngày loài đá chết đi
Sau cú vụt sáng của một vì sao lạc
Đất trời lên men
Loài vi khuẩn thấy mình cao sang trong thớ thịt
Trương mắt nhìn loài người
Những con bò nhai cỏ trên đồi cao
Quên đi tiền kiếp
Quên lời nguyền tiến hóa
Quên bầu trời xanh hơn loài cỏ dại
Chúng ước có đôi cánh như loài chuồn chuồn xanh đỏ
Vừa bay vừa nhai
Bầu trời chật hẹp trong lòng hồ
Mây làm bổn phận của đứa con xa xứ
Cội nguồn hồ nghi
Mặt trời kéo ngày về đỉnh núi
Mỏi lắm những đường bay
Loài muỗi dập dờn thức một mùi hương đêm
Đại dương khát nước
Tu một hơi dài những ước vọng trăng khuya
Bờ cát hở vú đêm
Bào mình trong gió
Mài mình trong nước
Hạt cát
Ý thức điên”.