Cùng đồng hành với lịch sử bi tráng của dân tộc, làng Trúc Khê (xã Cam An, Cam Lộ, Quảng Trị) ôm trong mình bao nhiêu câu chuyện xưa và nay, cứ nối nhau một cách bình thản, như dòng nước mãi miết chảy qua làng, về xuôi. Nhưng chừng ấy thời gian cũng đủ cho người Trúc Khê tạo nên những dấu ấn lịch sử -văn hóa, xưa và nay…
Từ một địa danh gắn liền với cây trúc bên sông
Các bậc Trưởng thượng trong làng kể rằng, xưa kia vùng đất này bạt ngàn cây trúc, trúc mọc nhiều nhất ở hai bên một Đại thủy khê – tức là con suối lớn, chảy qua làng…
Theo chiếu di dân của vua Lý Thái Tông, người Việt từ các vùng miền Bắc Trung bộ như Thanh Hóa, Nghệ An đã di dân vào vùng đất mới, định cư xây dựng sự nghiệp lâu dài cho con cháu. Trong đó đoàn người Nam tiến đó có các bậc tiền nhân của làng đến đây, thấy vùng đất đai màu mỡ nên đã dừng chân để khai hoang điền địa.
Các vị tiền khai khẩn đã lấy chữ Trúc- chỉ cây trúc và chữ Khê- trong chữ Hán có nghĩa là khe, suối để ghép thành tên làng Trúc Khê. Ý muốn rằng con người Trúc Khê có tính thẳng ngay, quân tử như cây trúc những cũng dịu dàng, kín đáo như dòng sông.
Đến một miền quê khởi sắc
Trúc Khê là một trong 11 làng của xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị. Trong cuốn Ô Châu Cận Lục của tác giả Dương Văn An soạn tác vào năm 1555 Trúc Khê có tên trong 59 làng cổ của huyện Võ Xương. Sang thế kỷ 18, Trúc Khê là một trong 22 xã phường của tổng An Lạc, huyện Đăng Xương. Đến thế kỷ thứ 19, Trúc Khê cùng các làng lân cạnh như Kim Đâu, Trúc Kinh thuộc tổng An Lạc, huyện Thanh Hóa.
Qua những biến cố của lịch sử, dù tách nhập vào các tổng hoặc xã khác nhau, tuy nhiên tên làng Trúc Khê không thay đổi, vẫn trường tồn như thủa tiền nhân khai sáng hương hiệu cho đến ngày hôm nay. Hai ngài tiền khai khẩn đã được các vua triều đình nhà Nguyễn sắc phong là Dực bảo Trung thần và Đoan túc Tôn thần. Hiện sắc phong đang được lưu giữ tại làng.
Ngôi đình làng quay mặt về hướng Nam của làng Trúc Khê có kiến trúc theo kiểu đình trần. Tuy không gác cao, dãy dài, nhiều gian nhiều mái, đình làng Trúc Khê tvẫn oát lên vẻ uy nghiêm nhưng gần gũi. Trước đình là một cổng tam quan được xây theo lối cổng Dinh xưa, trên từng cột cổng là các câu đối Hán tự với những ý nghĩa sâu xa nhằm cầu phúc cho làng cũng như răn dạy con cháu đời sau. Ở hai bên đình là miếu thờ của các ngài tiền khai khẩn ra làng Trúc Khê.
Hiện tại đình làng này, hàng năm làng trang trọng tổ chức một số lễ hội. Vào tháng 6 âm lịch có lễ Cầu an Đại tự nhằm cầu mưa thuận gió hòa, an lạc đến với con em trong làng. Ngày mồng 1 tháng 2 tổ chức ngày kỵ của hai ngài tiền khai khẩn. Ngày 27 tháng 12 thì tổ chức lễ Đông chí và lễ xuống đồng.
Trúc Khê đã vươn mình lớn mạnh. Với bản chất cần cù, chịu thương chịu khó và đức tính không chịu đói nghèo, nhân dân Trúc Khê đã đồng lòng đồng sức cùng xây dựng quê hương ngày càng khởi sắc.
Hiện nay toàn thôn có khoảng 300 hộ dân với trên 600 nhân khẩu. Bên cạnh việc phát triển các ngành nghề kinh doanh, dịch vụ thì việc đâu tư cho trồng trọt, trồng rừng luôn được chú trọng. Nhiều trang trại chăn nuôi- trồng trọt tổng hợp đã cho thu nhập cao.
Có câu rằng, con người ta có nhiều chốn để tới nhưng một nơi đau đáu quay về, ấy là quê hương. Mỗi làng quê nước Việt thân yêu, qua hàng trăm năm dựng xây và phát triển, kể từ khi ông cha sáng lập nên hương hiệu cho đến ngày nay luôn là sự trỗi dậy không ngừng nghỉ của những bàn tay cố kết cộng đồng. Sự cố kết ấy như sợi chỉ hồng thắm thiết được các thế hệ nâng niu, nối dài mãi từ xưa cho đến mai sau.
(Nguồn: QRTV)